Ảnh minh họa, nguồn: ITN.
Giá vật liệu tăng gây áp lực cho nền kinh tế
Trong nửa đầu năm 2025, thị trường VLXD chứng kiến những biến động mạnh. Giá nhiều loại vật liệu chủ chốt như: cát, đá, gạch, xi măng, thép… tăng nhiều so với năm 2024, có tác động lan rộng: chi phí đầu tư các dự án hạ tầng trọng điểm như cao tốc Bắc – Nam, sân bay Long Thành, các dự án điện khí LNG, thủy lợi, chống sạt lở ở Đồng bằng sông Cửu Long… đều bị đội vốn. Đồng thời, giá thành xây dựng nhà ở tăng cao, gây áp lực lên thị trường BĐS và gián tiếp đẩy chỉ số giá tiêu dùng (CPI).
Cùng với đó, nhiều hiện tượng tiêu cực nảy sinh: đầu cơ, găm hàng, khai thác – tập kết trái phép, thổi giá trong đấu thầu. Hệ quả là tiến độ thi công bị chậm trễ, nhà thầu thiếu vật liệu để triển khai.
Trong khi đó, mặc dù đã có quy hoạch mỏ cát, đá, sỏi, nhưng thủ tục cấp phép, điều chỉnh công suất, đánh giá tác động môi trường… kéo dài, gây “đứt gãy nguồn cung”. Các doanh nghiệp khai thác phải qua nhiều khâu trung gian, phát sinh chi phí, làm giá thành tiếp tục bị đội lên.
Theo TS Trần Bá Việt – Phó Chủ tịch Hiệp hội VLXD Việt Nam, tình trạng khan hiếm nguồn cung hiện nay một phần xuất phát từ việc trữ lượng mỏ có hạn và nhiều mỏ đã khai thác vượt quá quy định. Trên báo cáo giấy tờ, số liệu trữ lượng vẫn còn, nhưng thực tế kiểm tra thì đã cạn. Do lo ngại bị xử lý nếu xuất hóa đơn cho các dự án trong khi trữ lượng không đúng thực tế, nhiều chủ mỏ lựa chọn “án binh bất động”, chờ qua giai đoạn căng thẳng này.
TS Trần Bá Việt cũng chỉ ra rằng, thủ tục cấp phép mỏ còn chậm, chi phí ngoài quy định lớn, khiến giá khai thác thực tế tăng cao nhưng không thể tính hợp pháp vào giá thành, dẫn đến tình trạng có mỏ nhưng không khai thác, hoặc nếu bán theo giá niêm yết thì lỗ.
Thủ tướng yêu cầu tăng cường các giải pháp
Trước thực trạng này, ngày 10/6/2025, Thủ tướng Chính phủ ban hành Công điện số 85/CĐ-TTg về việc tăng cường các giải pháp quản lý, bình ổn giá VLXD, với mục tiêu được xác định rõ: (i) Ổn định cung – cầu, tránh tình trạng thiếu hụt cục bộ, (ii) kiểm soát giá cả minh bạch, ngăn chặn đầu cơ, găm hàng, (iii) rút ngắn thủ tục hành chính, giao mỏ trực tiếp cho nhà thầu các công trình trọng điểm, (iv) khuyến khích phát triển vật liệu thay thế, như cát nhân tạo, cát biển rửa, gạch không nung, tái chế chất thải xây dựng, (v) đảm bảo mục tiêu vĩ mô: ổn định kinh tế – xã hội, kiểm soát lạm phát, giữ tiến độ các dự án trọng điểm quốc gia, đồng thời hướng đến mục tiêu phát thải ròng bằng “0” (Net Zero 2050).
Công điện số 85/CĐ-TTg giao trách nhiệm cụ thể cho Bộ Xây dựng phải theo dõi sát thị trường, công bố giá và chỉ số giá minh bạch, báo cáo kịp thời nếu vượt thẩm quyền; yêu cầu doanh nghiệp tiết giảm chi phí, đầu tư công nghệ, tăng tỷ lệ vật liệu không nung lên 35–40% vào cuối 2025, góp phần giảm trên 2,5 triệu tấn CO₂/năm.
Bộ NN&MT phải cắt giảm ít nhất 30% thời gian, chi phí thủ tục liên quan đến 515 TTHC và 859 điều kiện kinh doanh trong khai thác khoáng sản; trình nghị định hướng dẫn Luật Địa chất và khoáng sản theo thủ tục rút gọn trước 1/7/2025; mở rộng đối tượng được cấp phép, nhất là các nhà thầu hạ tầng ở ĐBSCL.
Các Bộ, ngành khác và địa phương chịu trách nhiệm trực tiếp trong kiểm soát giá, xử lý đầu cơ, đảm bảo công khai – minh bạch.
Hà Nội kiến nghị tháo gỡ vướng mắc
Sau khi công điện được ban hành, Hà Nội là một trong những địa phương sớm triển khai, đã ban hành một loạt văn bản: Văn bản số 7622/SXD-KTXD ngày 19/6/2025, công bố giá VLXD, đồng thời báo cáo những khó khăn trong quá trình triển khai niêm yết giá; Văn bản số 3873/UBND-ĐT ngày 2/7/2025, báo cáo thực trạng và đề xuất tháo gỡ, kiến nghị Bộ Xây dựng sớm có hướng dẫn thống nhất về phương pháp khảo sát, xác định giá VLXD tại thời điểm thực tế, cũng như cơ chế điều chỉnh định mức giá khi giá thị trường biến động.
Đặc biệt, Hà Nội kiến nghị Bộ Xây dựng 6 nội dung then chốt: (i) Hướng dẫn phương pháp khảo sát giá VLXD, nhất là khi có biến động, (ii) cho phép áp dụng chỉ số CPI nhóm “nhà ở và VLXD” để điều chỉnh công bố giá hàng tháng, quý, (iii) quy định rõ trách nhiệm các chủ đầu tư, tư vấn, chính quyền địa phương, cơ quan thuế trong cung cấp và quản lý thông tin giá, (iv) phân công cụ thể giữa Sở Xây dựng và Sở Tài chính trong việc theo dõi, công bố giá định kỳ, (v) có hướng dẫn phối hợp giữa Bộ Xây dựng – Bộ NN&MT – địa phương trong quy hoạch, cấp phép, điều tiết nguồn cung khoáng sản thông thường, (vi) cho phép điều chỉnh đơn giá khi biến động giá vượt mức chi phí dự phòng, nhằm bảo đảm tiến độ dự án và giải ngân vốn đầu tư công.
Hầu hết các địa phương khác trên toàn quốc đều có văn bản triển khai Công điện số 85/CĐ-TTg, một số địa phương có địa bàn trọng điểm triển khai các dự án đầu tư xây dựng quan trọng quốc gia, dự án lớn năm trong kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh, cũng có văn bản hướng dẫn và đề xuất giải pháp cụ thể bảo đảm phù hợp với yêu cầu thực tiễn của từng dự án.
Một số khuyến nghị chính sách
Từ thực tiễn triển khai Công điện số 85/CĐ-TTg và kiến nghị từ Hà Nội, có thể rút ra một số khuyến nghị chính sách:
Thứ nhất, cải cách thủ tục hành chính, cần triển khai mạnh mẽ cơ chế “một cửa – một dấu” trong cấp phép khai thác mỏ VLXD. Việc này không chỉ giảm chi phí trung gian mà còn hạn chế tiêu cực phát sinh.
Thứ hai, xây dựng cơ sở dữ liệu giá VLXD toàn quốc, dữ liệu phải cập nhật theo vùng, phản ánh đúng cung – cầu thực tế, có cơ chế kết nối với CPI để kịp thời điều chỉnh giá công bố.
Thứ ba, tăng cường minh bạch hóa nguồn cung, thường xuyên kiểm tra trữ lượng khai thác thực tế, buộc các mỏ khai thác – kinh doanh phải xuất hóa đơn đúng quy định. Khi nguồn cung rõ ràng, hiện tượng găm hàng, đầu cơ sẽ giảm.
Thứ tư, đổi mới tư duy thiết kế, với những dự án có nền đắp cao, cần cân nhắc chuyển sang phương án cầu cạn để giảm nhu cầu cát đá san lấp. Đây là giải pháp kỹ thuật quan trọng, vừa tiết kiệm chi phí, vừa giảm phụ thuộc vào tài nguyên.
Thứ năm, khuyến khích vật liệu thay thế, đẩy mạnh phát triển và sử dụng cát nhân tạo, gạch không nung, vật liệu tái chế. Cần có chính sách hỗ trợ doanh nghiệp đầu tư công nghệ và ưu tiên sử dụng trong các gói thầu vốn nhà nước.
Công điện số 85/CĐ-TTg đã phát đi thông điệp rõ ràng: bình ổn thị trường VLXD là nhiệm vụ cấp bách, liên quan trực tiếp đến tiến độ đầu tư công và ổn định vĩ mô. Những bước đi của Hà Nội cùng nhiều địa phương khác, cho thấy nỗ lực cụ thể của địa phương trong triển khai chỉ đạo, đồng thời cũng bộc lộ nhiều vướng mắc cần tháo gỡ.
Tuy nhiên, để chính sách thực sự đi vào cuộc sống, điều quan trọng là sự phối hợp đồng bộ giữa Trung ương và địa phương, sự minh bạch từ phía doanh nghiệp và cải cách hành chính thực chất. Chỉ khi đó, thị trường VLXD mới vận hành ổn định, minh bạch và bền vững, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế – xã hội cũng như mục tiêu Net Zero 2050.