Vật liệu xanh là xu hướng trong ngành Xây dựng
Định hình lộ trình giảm phát thải cho ngành vật liệu
Ngành VLXD là một trong những lĩnh vực công nghiệp trọng điểm, có đóng góp lớn cho GDP và phát triển hạ tầng quốc gia, đồng thời cũng là một trong các ngành có mức phát thải khí nhà kính (KNK) cao nhất.
Theo ước tính tổng hợp ngành VLXD, tổng phát thải KNK từ sản xuất xi măng, gạch nung và các vật liệu khác chiếm gần 10% tổng phát thải quốc gia, trong đó riêng ngành xi măng chiếm khoảng 60% lượng phát thải của toàn ngành VLXD.
Trong bối cảnh Việt Nam đã cam kết tại COP26 đạt phát thải ròng bằng 0 vào năm 2050, Bộ Xây dựng đang triển khai đồng bộ các chính sách và chương trình hành động cụ thể nhằm giảm phát thải KNK. Một trong những tài liệu định hướng quan trọng là Kế hoạch giảm phát thải KNK ngành sản xuất VLXD đến năm 2030, đang được Viện VLXD biên soạn.
Theo dự thảo Kế hoạch, ngành VLXD đặt mục tiêu đến năm 2030 giảm ít nhất 15,03% lượng phát thải so với kịch bản phát triển thông thường (BAU), tương đương khoảng 23,2 triệu tấn CO₂ tương đương (CO₂e). Khi có hỗ trợ thêm của quốc tế, mức giảm có thể đạt 20,06%, tương ứng 30,97 triệu tấn CO₂e. Đây là bước tiến quan trọng hướng tới mục tiêu quốc gia về giảm phát thải, đồng thời đặt ra thách thức lớn cho các doanh nghiệp trong ngành, đặc biệt là trong giai đoạn 2024 - 2030 khi nhu cầu đầu tư đổi mới công nghệ trở nên cấp bách.
Kế hoạch giảm phát thải KNK ngành sản xuất VLXD được xây dựng trên cơ sở xác định rõ các nhóm biện pháp giảm phát thải chủ yếu đối với các lĩnh vực xi măng, gạch nung và các quá trình công nghiệp liên quan, được xây dựng dựa trên hệ thống văn bản gồm: (i) Luật Bảo vệ môi trường năm 2020: quy định tại Điều 91, 92 và 139 về giảm nhẹ phát thải KNK, bảo vệ tầng ozon và phát triển thị trường carbon;(ii) Nghị định số 06/2022/NĐ-CP, ngày 07/01/2022 của Chính phủ quy định giảm nhẹ phát thải KNK và bảo vệ tầng ozon; (iii) Nghị định số 119/2025/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 06/2022/NĐ-CP; (iv) Cùng các cam kết quốc tế, trong đó có Đóng góp do quốc gia tự quyết định (NDC) cập nhật năm 2022.
Khi dự thảo Kế hoạch được ban hành, sẽ là lần đầu tiên ngành VLXD có lộ trình định lượng cụ thể về cường độ phát thải và cơ chế giám sát. Bộ Xây dựng đóng vai trò cơ quan chủ quản; Vụ KHCNMT&VLXD, Viện VLXD là đầu mối thực hiện, phối hợp với Sở Xây dựng các tỉnh, thành phố, các tổng công ty xi măng, hiệp hội và doanh nghiệp sản xuất vật liệu để triển khai.
Doanh nghiệp đẩy mạnh chuyển đổi công nghệ giảm phát thải
Trong tiến trình thực hiện cam kết giảm phát thải KNK của Việt Nam, ngành VLXD được xác định là một trong những lĩnh vực cần chuyển đổi sớm, bởi đây là nhóm ngành có cường độ phát thải lớn và tiêu thụ năng lượng cao.
Mục tiêu kép đang được ngành hướng tới là vừa tuân thủ các cam kết quốc tế về giảm phát thải, vừa thúc đẩy đổi mới công nghệ, tiết kiệm năng lượng và phát triển thị trường tín chỉ carbon trong nước, qua đó hình thành cơ hội kinh tế mới cho những doanh nghiệp chủ động thích ứng.
Các giải pháp kỹ thuật trọng tâm được ưu tiên triển khai trong ngành thời gian qua gồm: (i) thu hồi và tận dụng nhiệt thải trong sản xuất; (ii) tối ưu hóa công nghệ nung và nghiền; (iii) thay thế một phần clinker bằng phụ gia khoáng; (iv) sử dụng nhiên liệu thay thế; và (v) tăng cường kiểm kê, giám sát và báo cáo phát thải.
Trong đó, giải pháp thu hồi và tận dụng nhiệt thải mang lại hiệu quả giảm phát thải rõ rệt nhất trong ngành xi măng - lĩnh vực phát thải nhiều nhất trong chuỗi VLXD. Nhiệt thải từ lò nung clinker có thể được thu hồi để phát điện hoặc gia nhiệt cho các công đoạn khác.
Hiện nay, có khoảng 34 dây chuyền xi măng trên cả nước đã đầu tư hệ thống phát điện tận dụng nhiệt dư với tổng công suất khoảng 248 MW. Tiêu biểu như Công ty Xi măng Vicem Bút Sơn đã khánh thành hệ thống phát điện nhiệt thừa khí thải công suất 12 MW, cung cấp gần 30% nhu cầu điện năng của nhà máy, giúp giảm phát thải khoảng 86 nghìn tấn CO₂ mỗi năm. Đây là minh chứng cho hiệu quả “lợi kép”, vừa tiết kiệm chi phí năng lượng, vừa giảm phát thải gián tiếp từ điện mua ngoài.
Giải pháp sử dụng nhiên liệu thay thế (Alternative Fuels - AFR) như: rác thải công nghiệp, sinh khối, bùn thải hoặc chất thải rắn sinh hoạt đang dần được áp dụng trong các nhà máy xi măng lớn. Việc thay thế một phần than cám giúp giảm đáng kể phát thải CO₂ và góp phần xử lý chất thải địa phương.
Tại Vicem Hoàng Thạch và Xi măng Bút Sơn, tỷ lệ thay thế nhiên liệu đã đạt khoảng 25 - 30% tổng nhu cầu nhiệt. Một số doanh nghiệp, như xi măng Lam Thạch, thậm chí đã triển khai mô hình “đổi rác lấy tiền”, thu gom rác thải sinh hoạt để đồng xử lý, qua đó vừa giảm chi phí nhiên liệu 10 - 15%, vừa xử lý rác hiệu quả.
Dù vậy, tỷ lệ sử dụng nhiên liệu thay thế của toàn ngành vẫn mới đạt khoảng 3 - 4%, cho thấy dư địa còn rất lớn nếu có cơ chế hỗ trợ phù hợp về logistics, tiêu chuẩn kỹ thuật và tín dụng xanh.
Giải pháp giảm tỷ lệ clinker và tăng phụ gia khoáng: Quá trình sản xuất clinker là nguyên liệu chính của xi măng phát sinh lượng lớn CO₂ do phản ứng nhiệt phân CaCO₃. Việc giảm tỷ lệ clinker trong phối liệu xi măng, thay thế bằng tro bay, xỉ lò cao, đá vôi nghiền mịn, bùn thải xử lý, được xem là giải pháp “giảm phát thải hóa học” hiệu quả nhất.
Tỷ lệ clinker trung bình trong xi măng Việt Nam hiện khoảng 70 - 75%, trong khi nhiều nước phát triển đã giảm xuống còn 60 - 65%. Nếu toàn ngành giảm được 5% tỷ lệ clinker, lượng phát thải có thể giảm tương ứng 3 - 4 triệu tấn CO₂ mỗi năm.
Giải pháp nâng cao hiệu suất năng lượng và quản lý điện năng: Để sản xuất 1 tấn clinker, các nhà máy xi măng hiện tiêu thụ khoảng 120 - 140 kg than và 60 - 65 kWh điện; tương ứng phát thải khoảng 0,85 - 0,9 tấn CO₂/tấn clinker. Các giải pháp tự động hóa, kiểm soát cân bằng nhiệt, và áp dụng hệ thống quản lý năng lượng ISO 50001 giúp giảm từ 5 - 10% cường độ năng lượng, tương đương hàng trăm nghìn tấn CO₂ mỗi năm.
Nhà máy Xi măng Long Sơn (Thanh Hóa), sau khi triển khai dự án tối ưu hóa năng lượng và tận dụng nhiệt, đã tiết kiệm được hơn 160 triệu kWh điện, tương đương 26% tổng tiêu thụ điện đầu vào, một con số ấn tượng trong bối cảnh giá điện tăng và chi phí sản xuất bị siết chặt.
Các doanh nghiệp xi măng lớn như: Vicem, Fico-YTL, Bỉm Sơn, Xuân Thành hay Viglacera đều đã có chương trình hành động giảm phát thải cụ thể. Trong đó, Vicem đặt mục tiêu giảm 10% cường độ phát thải CO₂/tấn xi măng vào năm 2025 và 20% vào năm 2030.
Vicem Hoàng Thạch đã áp dụng hệ thống MRV (Measurement - Reporting - Verification) để kiểm kê phát thải KNK, trong khi Viglacera Hạ Long tập trung cải tiến dây chuyền gạch tuynel tiết kiệm năng lượng và áp dụng công nghệ đốt LPG thay than cám, giúp giảm 15% phát thải và 20% chi phí vận hành.
Bên cạnh đó, một số doanh nghiệp lớn trong ngành xi măng và VLXD đã hợp tác với các tổ chức tài chính quốc tế như IFC trong các chương trình hỗ trợ chuyển đổi công nghệ và sử dụng năng lượng hiệu quả. Đây là hướng đi phù hợp xu thế, giúp doanh nghiệp tiếp cận tín dụng xanh, đầu tư thiết bị thu hồi nhiệt và giảm phát thải bền vững.
Cơ chế carbon - động lực thúc đẩy chuyển đổi xanh
Dù có nhiều nỗ lực, nhưng phần lớn doanh nghiệp VLXD đang gặp những rào cản lớn như: (i) Chi phí đầu tư ban đầu cao, đặc biệt với các hệ thống tận dụng nhiệt, AFR hoặc thiết bị kiểm soát khí thải; (ii) Thiếu cơ chế ưu đãi cụ thể về thuế, tín dụng, và khấu trừ carbon để khuyến khích đầu tư xanh; (iii) Chuỗi cung ứng nhiên liệu thay thế chưa ổn định, chi phí vận chuyển rác, sinh khối, phế thải cao; (iv) Thiếu nhân lực kỹ thuật am hiểu kiểm kê và tính toán phát thải theo phương pháp IPCC; (v) Cạnh tranh thị trường khốc liệt khiến các doanh nghiệp khó cân đối giữa chi phí đầu tư xanh và giá bán sản phẩm.
Những khó khăn này đòi hỏi sự hỗ trợ mạnh mẽ hơn từ cơ quan quản lý, cũng như cơ chế tài chính linh hoạt để doanh nghiệp có thể “xanh hóa” mà không mất đi sức cạnh tranh.
Mặc dù vậy, cơ hội cũng đang mở ra từ chính sách thị trường carbon bằng việc ban hành Nghị định số 119/2025/NĐ-CP về phát triển thị trường carbon, được xem là cú hích cho doanh nghiệp VLXD. Theo đó, doanh nghiệp thực hiện giảm phát thải vượt chỉ tiêu có thể bán tín chỉ carbon, trong khi doanh nghiệp chưa đạt yêu cầu có thể mua bổ sung.
Ngành xi măng, với tổng phát thải hơn 80 triệu tấn CO₂/năm, nếu giảm được 1% phát thải tương ứng 800 nghìn tín chỉ carbon (1 tín chỉ = 1 tấn CO₂e). Với mức giá quốc tế hiện khoảng 5 - 10 USD/tín chỉ, giá trị kinh tế có thể đạt 4 - 8 triệu USD/năm, là con số đáng kể để tái đầu tư công nghệ. Đây chính là động lực kinh tế để các doanh nghiệp VLXD coi “giảm phát thải” không chỉ là nghĩa vụ, mà còn là nguồn thu và lợi thế cạnh tranh trong tương lai.
Theo các chuyên gia và định hướng của Viện VLXD, để hoàn thành mục tiêu giảm phát thải 15,03% đến năm 2030, cần đồng thời triển khai các nhóm giải pháp. Trong đó, về phía Nhà nước, cần sớm ban hành danh mục cơ sở phải kiểm kê KNK ngành VLXD và hướng dẫn phương pháp MRV; xây dựng quỹ hỗ trợ chuyển đổi công nghệ xanh, cho phép doanh nghiệp khấu trừ chi phí đầu tư tiết kiệm năng lượng vào thuế TNDN; tăng cường hợp tác quốc tế để doanh nghiệp tiếp cận nguồn vốn ưu đãi từ Quỹ Khí hậu xanh (GCF) và Quỹ Môi trường toàn cầu (GEF).
Về phía doanh nghiệp, cần chủ động kiểm kê phát thải, lập kế hoạch giảm phát thải nội bộ, đào tạo cán bộ phụ trách môi trường; Tăng cường đầu tư vào thiết bị thu hồi nhiệt, sử dụng nhiên liệu thay thế và phụ gia khoáng; Phát triển sản phẩm “xi măng xanh”, “gạch carbon thấp” có chứng nhận môi trường, phù hợp xu hướng thị trường quốc tế; Tham gia các dự án thí điểm tín chỉ carbon trong nước, tận dụng cơ hội tài chính mới từ thị trường carbon.
Kế hoạch giảm phát thải KNK ngành VLXD đến năm 2030 là bước ngoặt quan trọng trong chính sách môi trường của Bộ Xây dựng, đánh dấu giai đoạn chuyển mình mạnh mẽ của một ngành có tác động lớn đến phát triển kinh tế và môi trường. Doanh nghiệp VLXD, nếu chỉ coi việc giảm phát thải là nghĩa vụ sẽ gặp khó khăn, nhưng nếu nhìn nhận đây là cơ hội tái cấu trúc công nghệ và tăng năng suất xanh, họ sẽ trở thành những người dẫn đầu trong hành trình chuyển đổi bền vững.
Con đường đến năm 2030 đòi hỏi sự kiên định, minh bạch và hợp tác giữa Nhà nước - doanh nghiệp - tổ chức quốc tế. Khi đó, việc giảm phát thải không chỉ góp phần thực hiện cam kết quốc gia, mà còn là chìa khóa để ngành VLXD Việt Nam bước vào chuỗi giá trị toàn cầu với vị thế mới “xây dựng xanh cho tương lai”.