• Trang chủ
  • Giới thiệu
    • Giới thiệu chung
    • |
    • Điều lệ Hội VLXDVN
    • |
    • Danh sách Ban chấp hành-Đoàn chủ tịch
    • |
    • Danh sách Hội viên
    • |
    • Hồ sơ xin gia nhập Hội VLXDVN
  • Tin tức
    • Tin tức - Sự kiện
    • |
    • Hội thảo - Hội chợ
    • |
    • Thị trường VLXD
  • Khoa học - Công nghệ
    • Sản phẩm
    • |
    • Công nghệ
  • Văn bản pháp luật
    • Luật - Nghị định
    • |
    • Quyết định - Thông tư
    • |
    • Tiêu chuẩn
  • Thông tin doanh nghiệp
    • Hoạt động của hội viên
    • |
    • Dành cho hội viên
  • Hỏi đáp
    • Gửi câu hỏi
    • |
    • Câu hỏi đã trả lời
  • Liên hệ

VẬT LIỆU XÂY DỰNG THÔNG THƯỜNG ĐỐI VỚI ĐẦU TƯ CÔNG - CƠ HỘI VÀ THÁCH THỨC. KIẾN NGHỊ GIẢI PHÁP KHƠI THÔNG ĐIỂM NGHẼN TRONG VIỆC CẤP PHÉP CÁC MỎ KHOÁNG SẢN LÀM VẬT LIỆU XÂY DỰNG THÔNG THƯỜNG.

Tin tức - Sự kiện 04:18 - 25/12/2025
Nhu cầu vật liệu xây thông thường từ năm 2026 đến năm 2030 để thực hiện khối lượng xây dựng công trình hạ tầng thuộc đầu tư công cũng như phát triển hạ tầng đô thị tại TP Hồ Chí Minh và khu vực đồng bằng sông Cửu Long là rất lớn. Để tháo gỡ những khó khăn hiện hữu, tìm giải pháp điều hành thị trường vật liệu xây dựng đảm bảo hiệu quả, đồng thời tạo sự phối hợp chặt chẽ giữa cơ quan quản lý, địa phương và doanh nghiệp, qua đó đảm bảo tiến độ thi công, tăng hiệu quả sử dụng vốn đầu tư công và mở rộng dư địa tăng trưởng cho nền kinh tế trong giai đoạn tới, việc khơi thông các điểm nghẽn đặc biệt trong khâu cấp phép các mỏ vật liệu cần có các cơ chế, chính sách pháp luật hợp lý.
  • I.  Mở đầu:
  •     Trong bối cảnh kinh tế Việt Nam đang hướng tới những mục tiêu tăng trưởng cao và bền vững trong năm 2026 và những năm tiếp theo, đầu tư công tiếp tục được xác định là một trong những động lực quan trọng nhất để thúc đẩy phục hồi và chuyển dịch cơ cấu kinh tế; Đặc biệt thành phố Hồ Chí Minh đang được định hướng xây dựng là siêu đô thị với quy mô lớn (khoảng 6.772 km2 có dân số 14 triệu dân), với vị thế là trung tâm kinh tế, tài chính, logistics hàng đầu khu vực Đông Nam Á, phát triển theo mô hình đa cực, đa trung tâm để kết nối hạ tầng số, thể chế, vật lý, hướng tới một đô thị thông minh hiện đại, cạnh tranh quốc tế.
  •    Quyết định số 370/QĐ-TTg ngày 04 tháng 5 năm 2024 của Thủ Tướng Chính phủ V/v Phê duyệt quy hoạch vùng Đông Nam Bộ thời kỳ 2021-2030 tầm nhìn đến năm 2050.
  •    Quyết định số 287/QĐ-TTg ngày 28 tháng 12 năm 2022 của Thủ tướng Chính phủ V/v Phê duyệt quy hoạch vùng Đồng bằng sông Cửu Long thời kỳ 2021-2030 tầm nhìn đến năm 2050; 
  •   Trong nội dung quy hoạch, chi tính riêng nhiệm vụ phát triển kết cấu hạ tầng khu vực này: Phát triển hệ thống kết cấu giao thông đa phương thức, kết nối vùng và quốc tế, trong đó chú trọng phát huy thế mạnh của vùng về giao thông thủy nội địa. Đến năm 2030, đầu tư xây dựng mới và nâng cấp khoảng 1.700 km đường bộ cao tốc; khoảng 4.000 km đường quốc lộ, 04 cảng hàng không, 13 cảng biển, 11 cụm cảng hành khách và 13 cụm cảng hàng hóa đường thủy, chưa kể nhiệm vụ phát triển hệ thống đô thị, xây dựng các cụm dân cư tập trung, vượt lũ…
  •    Với nhiệm vụ khối lượng công trình hạ tầng thuộc đầu tư công nói riêng thành phố Hồ Chí Minh chưa kể khu vực Đồng bằng sông Cửu Long cũng như phát triển hạ tầng đô thị thì nhu cầu vật liệu xây thông thường năm 2026 đến năm 2030 là rất lớn, hiện tại việc cản trở lớn tới tiến độ các dự án đang bị tác động bởi vướng mắc liên quan đến nguồn cung và giá vật liệu. Hàng loạt dự án trọng điểm đang triển khai và sẽ triển khai với vốn đầu tư hàng triệu tỷ đồng mà trong đó công thức 35 – 90 (35% vốn đầu tư cho vật liệu và 90% khối lượng hình thành công trình) để đáp ứng đủ là một cơ hội đồng thời là một thách thức cho ngành công nghiệp khai khoáng của thành phố Hồ Chí Minh.
  •   Để tháo gỡ những khó khăn hiện hữu, tìm giải pháp điều hành thị trường vật liệu xây dựng đảm bảo hiệu quả, đồng thời tạo sự phối hợp chặt chẽ giữa cơ quan quản lý, địa phương và doanh nghiệp, qua đó đảm bảo tiến độ thi công, tăng hiệu quả sử dụng vốn đầu tư công và mở rộng dư địa tăng trưởng cho nền kinh tế trong giai đoạn tới, việc khơi thông các điểm nghẽn đặc biệt trong khâu cấp phép các mỏ vật liệu cần có các cơ chế, chính sách pháp luật hợp lý.
  •    Thực trạng giao thông Đông Nam Bộ đang tắc nghẽn nghiêm trọng cả đường bộ, hàng không và đường biển. Trong lúc đó Đông Nam Bộ nói riêng và vùng kinh tế trọng điểm phía nam nói chung hiện đóng góp lớn cho nền kinh tế quốc gia, tiềm năng, nội lực phát triển vượt trội với mức đóng góp tổng sản phẩm nội địa hơn 50%, lớn hơn 3 vùng kinh tế trọng điểm cộng lại. Tuy nhiên tốc độ tăng trưởng bị sụt giảm, do ảnh hưởng của hạ tầng, vai trò động lực và dẫn dắt suy yếu dù vẫn đứng đầu. Lý do là thiếu kết nối vùng, đường vành đai và tuyến cao tốc còn ít, chậm triển khai, ách tắc lưu thông tại các trung tâm tăng trưởng, các nút giao thông không đồng bộ.
  •    Tìm giải pháp tháo gỡ các điểm nghẽn để thực hiện nhiệm vụ phát triển hạ tầng cho khu vực Thành phố Hồ Chí Minh nói riêng và Vùng kinh tế trọng điểm phía nam nói chung là hết sức cần thiết.
  • II. Tổng quan về tình hình khai thác khoáng sản làm vật liệu trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh:
  • II.1 Tổng quan về các mỏ khoáng sản vật liệu xây dựng thông thường:
  •  Để cung cấp vật liệu xây dựng thông thường cho khu vực Miền đông và đồng bằng sông Cửu Long, chủ yếu được khai thác trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh (Tỉnh Bình Dương; tỉnh Bà Rịa- Vũng Tàu trước sáp nhập), và một phần ở tinh Đồng Nai.
  •   Trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh hiện nay có khoảng 83 doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực khai thác chế biến khoáng sản làm vật liệu xây dựng với tổng số 96 điểm mỏ đang hoạt động tổng diện tích được cấp phép là 2.082,5 ha, cụ thể:
  • Đá xây dựng: Có 48 điểm mỏ, tổng diện tích khai thác là 1.193,43 ha, công suất được cấp pép 25 triệu m3/năm, hiện khai thác thực tế đạt trên 17 triệu m3 năm 2025, những năm tới có khả năng giảm thấp do một số vướng mắc về thủ tục và thời hạn giấy phép hết hạn.
  • Về tài nguyên đá xây dựng trên khu vực đã  được quy hoạch và đánh trữ lượng trên 1.000 triệu m3.
  • Sét gạch ngói: Có 30 điểm mỏ, diện tích cấp phép 670 ha, công suất cấp phép là 4,350 triệu m3 năm, sản lượng khai thác thực tế năm 2025 khoảng 1,03 triệu m3.
  • Cát xây dựng (không tính các mỏ cấp cho dự án Cần Giờ) có 09 giấy phép, tổng diện tích cấp phép là 143,6 ha, công suất cấp phép 400.000 m3/năm, năm 2025 đạt 230.000 m3.
  • Vật liệu san lấp: Có 06 mỏ đang hoàn thiện hồ sơ.
  • Puzlan: Có 06 mỏ, trữ lượng cấp phép là 138,5 triệu m3, diện tích cấp phép 297,36 ha, làm phụ gia xi măng.
  • Hiện trạng các mỏ khoáng sản đặc biệt là đá xây dựng có đặc điểm:
  • + Các giấy phép được cấp từ 5 đến 10 năm trước, với độ sâu khai thác hạn chế khi chưa có luật quy hoạch, chưa có quy hoạch được duyệt của Thủ Tướng Chính phủ.
  • + Độ sâu khai thác của các mỏ đều chưa đạt độ sâu quy hoạch được Thủ Tướng Chính phủ phê duyệt, trong khi đó đá xây dựng phân bố đến hơn 300 m theo chiều sâu.
  • + Một số mỏ sắp hết hạn.
  • + Các mỏ được cấp trong quy hoạch liền kề nhau, nhiều mỏ có các diện tích xen kẹp không thể tách thành Dự án độc lập.
  • + Các mỏ đá xây dựng nằm trong khối trầm tích hoặc xâm nhập có độ sâu phân bố vài trăm mét, cấu tạo đồng nhất.
  • II.2 Pháp luật và chính sách liên quan:
  •   Nghị Quyết số 10-NQ/TW ngày 10 tháng 02 năm 2022 của Bộ Chính trị Về định hướng chiến lược địa chất, khoáng sản và công nghiệp khai khoáng đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045.
  •    Quyết định số 1266/QĐ-TTg ngày 18 tháng 8 năm 2020 của Thủ Tướng Chính Phủ, V/v phê duyệt Chiến lược phát triển vật liệu xây dựng Việt Nam thời kỳ 2021-2030, định hướng đến năm 2050.
  •   Quyết định số 1626/QĐ-TTg ngày 15 tháng 12 năm 2023 của Thủ Tướng Chính Phủ Phê duyệt Quy hoạch thăm dò, khai thác, chế biến khoáng sản làm vật liệu xây dựng thời kỳ 2021-2023, tầm nhìn đến năm 2050.
  •   Quyết định số 711/QĐ-TTg ngày 24 tháng 7 năm 2024 của Thủ Tướng Chính Phủ ban hành Kế hoạch thực hiện Quy hoạch thăm dò các loại khoáng sản làm vật liệu xây dựng thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050.
  •   Luật địa chất và khoáng sản số 54/2024/QH15 ngày 02 tháng 12 năm 2024, có hiệu lực từ ngày 01 tháng 7 năm 2025.
  •  Nghị định số 193/NĐ-CP ngày 02 tháng 7 năm 2025 Quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật địa chất và khoáng sản.
  •   Luật địa chất và khoáng sản 2024 đã mang lại nhiều cơ hội cho nghành công nghiệp khai khoáng, trong đó là việc phân cấp phân quyền cho chính quyền địa phương, thuận lợi nhưng cũng là thách thức, từ ngày 01 tháng 7 năm 2025 vận hành theo chính quyền hai cấp nên việc triên khai chưa triệt để, xuất hiện một số bất cập trong việc triển khai luật chưa đồng bộ với Luật đất đai, luật Đầu tư, Luật quy hoạch, Luật xây dựng.
  •   Hiện tại Luật địa chất và khoáng sản 2024 đã được Quốc hội khóa XV sửa đổi bô sung tại kỳ họp thứ 10 ngày 11 tháng 12 năm 2025. Những sửa đổi bổ sung kịp thời xử lý được một số  vướng mắc.
  •  Luật quy hoạch số 21/2017/QH14 ngày 24 tháng 11 năm 2017, Luật này đã được Quốc hội khóa XV tại  kỳ họp thứ 10 sửa đổi, bổ sung.
  •  Luật đầu tư số 61/2020/QH14 ngày 17 tháng 6 năm 2020 và luật này cũng đã được Quốc hội khóa XV sửa đổi bổ sung tại kỳ họp thứ 10.
  • Ngoài ra còn tác động trực tiếp đến các dự án khai thác khoáng sản là Luật xây dựng, Luật đất đai, cũng đã được Quốc hội khóa XV kỳ họp thứ 10 sửa đổi, bổ sung.
  •  III- Vướng mắc và kiến nghị giải pháp khơi thông điểm nghẽn trong việc cấp phép mỏ vật liệu:
  •  III.1 Những vướng mắc:
  •   Riêng khu vực thành phố Hồ Chí Minh như trên đã trình bày có nguồn tài nguyên là đá xây dựng đã được quy hoạch đánh giá với trữ lượng hàng tỷ m3. Có các doanh nghiệp đầu tư khai thác chế biến khoáng sản làm vật liệu đá xây dựng hoạt động nhiều năm nay. Tuy nhiên các mỏ khoáng sản đã cấp hiện tại, độ sâu cấp phép nông chưa đạt độ sâu phân bố tài nguyên đã được phê duyệt quy hoạch, nhiều mỏ gần hết thời hạn cấp phép, sản lượng khai thác thấp. Trong lúc đó việc đầu tư máy móc thiết bị và hạ tầng công trình phụ trợ đảm bảo việc khai thác chế biến phần tài nguyên trong diện tích mỏ phân bố theo chiều sâu mà chưa được cấp phép, đáp ứng tăng sản lượng lên 150-200%. Tuy nhiên công tác xin nâng công suất, xin khai thác xuống sâu, mở rộng và thông moong chưa thực hiện được. Nên khả năng cung ứng vật liệu cho thị trường gặp khó khăn.
  •   Những tồn tại thực tế hiện nay: Nhu cầu vật liệu xây dựng thông thường đã được phân cấp cho địa phương là tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương nên việc lập kế hoạch sử dụng chưa sát thực tế, chưa phù hợp với bảo đảm tính sẵn sàng cho các dự án trong tỉnh, chưa nói tới việc liên tỉnh - liên kết vùng. Các Dự án trọng điểm của địa phương hiện đang triển khai, về nhu cầu vật liệu xây dựng  chưa được đề cập trong kế hoạch cung ứng. Đặc biệt các dự án đầu tư công, các công trình trọng điểm lại càng không được quan tâm, chưa xác định nguồn cung cho dự án, nên trong thời gian qua đã xảy ra tình trạng khan hiếm. Điều kiện đảm bảo nguồn cung vật liệu xây dựng cho các Dự án trọng điểm và cho phát triển xây dựng hạ tầng địa phương, bất động sản…
  •   Quy hoạch khoáng sản làm vật liệu xây dựng và các Quyết định của Thủ Tướng Chính Phủ chỉ tập trung vào nhóm khoáng sản sản xuất vật liệu xây dựng thuộc nhóm II còn vật liệu xây dựng thông thường là đá, cát sỏi, vật liệu san lấp phân cấp cho địa phương là tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương. Địa phương lập quy hoạch khoáng sản nhưng chưa làm quy hoạch vật liệu xây dựng,
  •    Với nhu cầu của thành phố Hồ Chí Minh tính riêng cho đầu tư công năm 2026 đã khoảng 26 triệu m3 vật liệu đá xây dựng, nếu phải đáp ứng cho các công trình trọng điểm khu vực miền Đông và Đồng bằng sông Cửu Long thì nhu cầu gần gấp đôi, trong lúc đó việc cung ứng thực hiện theo cơ chế liên tỉnh, liên kết vùng là chưa có lời giải. Đê giải quyết nội dung này cần phải có giải pháp tháo gỡ các điểm nghẽn. Sau đây là một số điểm nghẽn đang tồn tại:
  •   Điểm nghẽn lớn nhất: Thiếu một tổ chức tổng hợp nhu cầu và điều tiết của Nhà nước đối với vật liệu xây dựng thông thường (đá, cát sỏi, vật liệu san lấp) đảm bảo phối hợp liên vùng đảm bảo bài toán Logistics và chi phí vận chuyển vật liệu. Khi Quốc hội và Chính Phủ phê duyệt quyết định chủ trương đầu tư thì việc đảm bảo nguồn vật liệu cho công trình chưa được triển khai đồng thời nên mất cân đối nguồn cung vật liệu cho thi công. Đáng lẽ ra nội dung này cần được thực hiện song song với công tác giải phóng mặt bằng và các công việc triển khai đầu tư khác.
  •   Điểm nghẽn thứ hai: Đá xây dựng là khoáng sản nhóm III, các sản trạng được quy hoạch đều nằm trong khối trầm tích hoặc đá xâm nhập, cấu tạo đơn giản, nếu theo quy phạm thăm dò đánh giá trữ lượng trình nhà nước xác nhận sẽ kéo dài thời gian, lãng phí. Hiện việc thực hiện mạng lưới định hướng thăm dò theo hướng dẫn tại thông tư 40/2025/TT-BNNMT là không phù hợp.
  •   Điểm nghẽn thứ ba: Theo Luật địa chất và khoáng sản 2024, việc phân cấp cho chính quyền cấp tỉnh phê duyệt khu vực không đấu giá vẫn còn vướng mắc, cụ thể tại mục đ khoản 2 Điều 4 và khoản 2 Điều 100 có sự không phù hợp, tất nhiên việc điều chỉnh bổ sung, sửa đổi Luật tại kỳ họp thứ 10 Quốc hội khóa 15 giải quyết nội dung này.
  •   Điểm nghẽn thứ tư: Theo Luật đầu tư, Luật xây dựng: Các mỏ hiện đang khai thác muốn mở rộng, xuống sâu đều vẫn  phải xin Quyết định chủ trương đầu tư, việc này mất rất nhiều thời gian có khi phải tính bằng năm. Đối với khoáng sản nhóm IV (vật liệu san lấp) hoặc đá xây dựng nhóm III thực hiện theo cơ chế đặc thù quy định tại Nghị Quyết số 66.4/2025/NQ-CP ngày 21 tháng 9 năm 2025 vẫn còn vướng mắc đối với Luật đất đai và luật xây dựng.
  •   Điểm nghẽn thứ năm: Quy trình để hoàn thành thủ tục cho một mỏ khoáng sản đá xây dựng nhóm III đang khai thác đều phải qua các bước: Xin chủ trương thăm dò xuống sâu, mở rộng và thông moong; Lập đề án thăm dò trình duyệt và xin giấy phép thăm dò; tiến hành công tác thăm dò tính trữ lượng; trình duyệt xác nhận trữ lượng; lập thiết kế cơ sở - Dự án đầu tư trình thẩm định; Báo cáo đánh giá tác động môi trường - giấy phép môi trường; Thủ tục đất đai về thuê đất; tập hợp hồ sơ xin cấp mỏ điều chinh. Thời gian tối thiểu từ 2 đến 3 năm. Các thủ tục một Dự án mỏ vật liệu và thủ tục quy trình như một Dự án mỏ nhóm I.
  •   Nếu mỏ cấp mới thì còn thời gian tổ chức đấu giá khoáng sản.
  • Như vậy, để có thể đáp ứng vật liệu xây dựng cho các dự án đầu tư công trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh nói riêng và khu vực nói chung cần phải có giải pháp khơi thông các điểm nghẽn:
  • IV. Kiến nghị những giải pháp nhằm tháo gỡ điểm nghẽn:
  • Thứ nhất:
  • Bộ Xây dựng với chức năng nhiệm vụ được quy định tại Nghị định số 33/2025/NĐ-CP ngày 25 tháng 02 năm 2025 là cơ quan xây dựng kế hoạch nhu cầu vật liệu xây dựng thông thường, là đầu mối chỉ đạo phối hợp liên vùng và làm vai trò điều tiết của nhà nước đối với các Dự án đầu tư công.
  • Đối với các địa phương cần lập Quy hoạch nhu cầu vật liệu xây dựng thông thường của địa phương phù hợp với quy hoạch khoáng sản.
  • Trong phát triển kinh tế liên tỉnh, liên vùng khu vực kinh tế trọng điểm phía nam và khu vực Đồng bằng sông Cửu Long cần có nội dung về nhu cầu vật liệu xây dựng đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2050 phù hợp với quy hoạch chung được duyệt.
  • Thứ hai: Cần cho phép các mỏ hiện đang khai thác được nâng cao công suất, tăng độ sâu đến cốt quy hoạch, mở rộng và thông moong giữa các mỏ liền kề để khi khai thác xuống sâu tận dụng được tài nguyên và đảm bảo an toàn, theo quy định của pháp luật hiện hành. Hiện các mỏ này đã được trang bị đầy đủ trang thiết bị cơ giới, hạ tầng dịch vụ.
  • Thứ ba: Công tác thăm dò tính trữ lượng đối với khoáng sản nhóm III (đá xây dựng thông thường) đề nghị Cục Địa chất và khoáng sản Bộ Nông nghiệp và môi trường cần ban hành Thông tư quy định kỹ thuật về công tác thăm dò phù hợp. Đặc biệt là mạng lưới thăm dò và các kỹ thuật khác.
  • Thứ tư: Khoanh địnhvà phê duyệt sớm khu vực không đấu giá phần tài nguyên xuống sâu, mở rộng, thông moong khu vực các mỏ hiện đang khai thác và khu vực đã được phê duyệt quy hoạch với phần diện tích không thể tách thành dự án độc lập, phần xen kẹp. Các nội dung này đã được Luật Địa chất và khoáng sản quy định.
  • Thứ năm: Với những mỏ hiện đang khai thác, khi mở rộng, xuống sâu và thông moong miễn giảm thủ tục xin Quyết định chủ trương đầu tư, vì các mỏ này là dự án đã được cấp chủ trương cho thăm dò đánh giá trữ lượng, trước đây đã có mỏ có Quyết định chủ trương đầu tư.
  • Thứ sáu: Để đảm bảo việc đáp ứng vật liệu cho Đầu tư công cũng như phục vụ sự phát triển kinh tế xã hội, về quản lý nhà nước cần chuyển mạnh từ “Tiền kiểm sang hậu kiểm”.
  • Trên đây là một vài ý kiến đề xuất nhằm tháo gỡ các nút thắt góp phần trong việc bứt phá tăng trưởng năm 2026 đến năm 2030 và những năm sau.
  • Xin trân trọng cảm ơn
  •                      TS. Võ Minh Đức
  • - Phó Chủ tịch Hiệp hội công nghiệp khoáng sản TP. HCM
  • - Phó Chủ tịch Hội Vật liệu xây dựng Việt Nam.
 
Tin tức liên quan :
  • Cao điểm hạ tầng 2026: Các dự án trọng điểm phía Nam cần tới hơn 15 triệu m3 vật liệu 09:39 - 25/12/2025
  • Nghiệm thu Nhiệm vụ “Nghiên cứu giải pháp sử dụng CO2 trong sản xuất cấu kiện bê tông đúc sẵn nhằm giảm phát thải khí nhà kính” 09:22 - 25/12/2025
  • AI không thể tách rời khỏi ESG 02:57 - 24/12/2025
  • Xi măng Đồng Lâm: Chắc từ nền móng - Đẹp từng công trình 04:51 - 23/12/2025
  • Diễn đàn phát triển bền vững ngành Xây dựng Việt Nam thúc đẩy phát triển công trình xanh 05:20 - 22/12/2025
  • Bộ Xây dựng ban hành Kế hoạch Cao điểm chống buôn lậu, gian lận thương mại và hàng giả dịp trước, trong và sau Tết Nguyên đán Bính Ngọ 2026 02:59 - 22/12/2025
  • TP. Hồ Chí Minh tiên phong phát triển bền vững ngành Xây dựng 09:44 - 20/12/2025
  • CHÍNH THỨC PHÁT HÀNH PROFILE DIỄN ĐÀN PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG NGÀNH XÂY DỰNG VIỆT NAM – VSCF 2025 06:31 - 18/12/2025
  • Báo cáo ngành xi măng Việt Nam: Chứng kiến dấu hiệu tích cực cuối năm 2025 10:25 - 18/12/2025
  • VinSpeed và Siemens Mobility hợp tác chiến lược toàn diện về đường sắt tốc độ cao 09:36 - 18/12/2025

Thông báo

  • Thông báo của Hội Vật liệu xây dựng Việt Nam về việc khen thưởng Hội viên năm 2025.
  • MỜI THAM DỰ HỘI THẢO “CÔNG NGHỆ MỚI, THIẾT BỊ TIÊN TIẾN, HIỆN ĐẠI CHO PHÁT TRIỂN VẬT LIỆU XÂY DỰNG XANH”
  • THÔNG BÁO CỦA HỘI VẬT LIỆU XÂY DỰNG VIỆT NAM VỀ VIỆC TỔ CHỨC HỘI THẢO CHỦ ĐỀ "CÔNG NGHỆ MỚI, THIẾT BỊ TIÊN TIẾN, HIỆN ĐẠI CHO XÂY DỰNG GIAO THÔNG VÀ SẢN XUẤT VẬT LIỆU XÂY DỰNG"
  • Thông báo (lần thứ hai) vê việc tổ chức Hội thảo chuyên đề: “CÔNG NGHỆ MỚI, THIẾT BỊ TIÊN TIẾN HIỆN ĐẠI PHÁT TRIỂN VẬT LIỆU XÂY DỰNG XANH”
  • THÔNG BÁO VỀ VIỆC TỔ CHỨC HỘI THẢO CHỦ ĐỀ "CÔNG NGHỆ MỚI, THIẾT BỊ TIÊN TIẾN HIỆN ĐẠI PHÁT TRIỂN VẬT LIỆU XÂY DỰNG XANH“

Video Clip

CÔNG TY CỔ PHẦN SÔNG ĐÀ CAO CƯỜNG - DOANH NGHIỆP KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ HÀNG ĐẦU VIỆT NAM SẢN XUẤT VẬT LIỆU XÂY DỰNG MỚI

ẢNH HOẠT ĐỘNG

  • Hội thảo khởi động - BMF2019 (20/08/2019)

LIÊN KẾT WEBSITE

  • HV

Thống kê

Lượt truy cập: 6564444

© Cơ quan chủ quản: Hội vật liệu xây dựng Việt Nam VABM

- Tổng biên tập: TS Thái Duy Sâm, Tổng thư ký VABM

- Ngõ 235 Nguyễn Trãi, Thanh Xuân dist., Hà nội

- Tel: 84-4-3858 4949 Fax 84-4-35576902

- Email: hoivlxdvn@fpt.vn

Lên đầu trang