Vật liệu nung đồng hành cùng vật liệu xây không nung
Sản phẩm 11:15 - 12/06/2020
Trong quá trình phát triển của mình, vật liệu xây không nung (VLXKN) đã trải qua thời gian khá dài và mang nhiều tên gọi khác nhau. Nhiều trường hợp tên gọi được đặt cho tên sản phẩm như gạch ba banh, gạch xỉ…ở các nước VLXKN cũng có tên gọi đa dạng.
Đóng gói sản phẩm gói Hạ Long
Trước đây ở Việt Nam vật liệu xây không nung được sản xuất chủ yếu để tận dụng các phế thải tro xỉ, chủ yếu trộn với vôi, có thể thêm ít xi măng. Lúc đó ý nghĩa môi trường hay bảo vệ tài nguyên đất ruộng chưa được thực sự chú ý.
Tuy nhiên, từ ngày 28/4/2010 khi Quyết định số 567/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ ra đời, định hướng và tên gọi của loại vật liệu này mới chính thức được xác nhận và đi vào thực tiễn, Theo Quyết định 567, đến năm 2015 khối lượng VLXKN sẽ thay thế được 20-25% vật liệu xây nung, hay tên thường gọi là gạch nung và đến năm 2020 sẽ thay thế được 30-40% gạch nung. Cũng theo Quyết định trên nhờ phát triển VLXKN, hàng năm sẽ tiết kiệm được 1000 héc ta đất nông nghiệp và đến năm 2020 sẽ xóa bỏ được các cơ sở sản xuất gạch thủ công. Có thể nói, đến năm 2020 các chỉ tiêu được đưa ra trong Quyết định số 567 đã hoàn thành, trong đó, việc dùng đất ruộng đã được triệt tiêu, các cơ sở sản xuất gạch thủ công đã gần như bị xóa sạch.
Có phải việc sản xuất, sử dụng VLXKN là nguyên nhân cơ bản để làm thay đổi thói quen sử dụng đất ruộng để sản xuất gạch nung cũng như xóa bỏ được công nghệ nung gạch thủ công. Nói cách khác, chính sự thúc đẩy, triển khai Quyết định 567 đã làm thay đổi gạch nung. Điều này cần được đánh giá một cách cụ thể, kho học nhưng có thể khẳng định là Quyết định 567 đã được triển khai mạnh mẽ, quyết liệt và đã thu được những kết quả tốt.
Tuy nhiên, một điều cần được xem xét, nhìn nhận, đánh giá đó là sự thay đổi tư duy công nghệ của các nhà đầu tư sản xuất gạch nung. Từ năm 2010 đến nay, mới chỉ 10 năm mà công nghệ gạch nung cũng như công nghệ sản xuất vật liệu đất sét nung có bước tiến quá nhanh và quá mạnh. Đã xuất hiện nhiều thế hệ công nghệ sản xuất gạch nung thay cho công nghệ “đỉnh cao” là công nghệ sản xuất bằng lò nung tuy nen, phôi gạch tạo hình bằng phương pháp đùn dẻo (trên 20% độ ẩm). Thế hệ công nghệ mới nhất là tạo hình đùn áp suất cao, bán khô (12-15,5% độ ẩm) và lò nung sấy trần phẳng kích thước chiều ngang lớn. Với công nghệ này nhà sản xuất chuyển hẳn sang sử dụng đất đồi và đất bãi ven sông, đất có chỉ số dẻo thấp thay cho đất ruộng có độ dẻo cao. Với công nghệ này, nhà sản xuất gạch nung không còn sử dụng đất ruộng, trả lại hàng ngàn héc ta đất ruộng cho phát triển nông nghiệp. Công nghệ này đã tạo ra những dây chuyền sản xuất tự động hóa cao, năng suất lao động cao, tiên tiến, tốn rất ít nhiên liệu, giảm phát thải ra môi trường, giá thành sản xuất giảm, chất lượng sản phẩm tăng cao.
Điều đáng nói, khi có VLXKN thay thế, các nhà sản xuất gạch nung cũng ý thức được rằng hiệu quả sản xuất gạch nung giảm dần vì vậy các dây chuyền sản xuất gạch nung từ nguồn đất sét mỏ chất lượng cao chuyển mạnh sang sản xuất gạch xây kiểu mới, ví dụ như gạch 11 lỗ kiểu mới của Viglacera Hạ Long, làm vật liệu xây trang trí, tường không trát vữa. Các nhà máy, công ty sản xuất gạch nung chuyển mạnh sang sản xuất ngói nung chất lượng cao, giá bán cao như ở nhà máy Tiêu Giao Viglacera Hạ Long và ngay trong dây chuyền sản xuất ngói nung cũng đổi mới công nghệ. Ngói được xếp, nung trực tiếp trên các xe goòng mà không cần xếp hàng gạch bao quanh làm “bao nung” như trước đây, tăng hiệu quả sản xuất kinh doanh ở Viglacera Hạ Long, Gốm Đất Việt và một số dây chuyền khác. Ở Công ty Trung Đô còn sản xuất cả ngói màu trên cơ sở sử dụng đất đồi, tạo sản rphẩm đẹp, bền, có giá trị kinh tế cao.
Như vậy, sự tác động của việc triển khai Quyết định 567 và sự ra đời của nhiều công nghệ mới là các yếu tố cơ bản giúp cho lĩnh vực sản xuất gạch nung thay đổi một cách cơ bản, mang lại hiệu quả kinh tế, xã hội, môi trường. Vật liệu xây không nung đang dần chiếm lĩnh thị trường vật liệu xây theo nhiều công nghệ, sản phẩm đa dạng khác nhau. Công nghệ sản xuất vật liệu nung từ đất sét dẻo, đất mỏ, đất ruộng cũng thay đổi nguồn nguyên liệu, thay đổi công nghệ, thay đổi sản phẩm, giảm sản xuất gạch xây từ đất mỏ, tăng sản xuất ngói lợp chất lượng cao, gạch ốp lát chất lượng cao như gạch Cotto ở Viglacera Hạ Long, Gốm Đất Việt. Nói đúng hơn, ngành sản xuất gạch nung đã chuyển mình mạnh mẽ theo yêu cầu của cuộc sống.
Trước đây, khi quyết định 567 – TTg ra đời nhiều người nghĩ rằng sẽ có “cuộc chiến” giữa gạch nung và VLXKN. Nhưng, thực tế xảy ra có tính ‘hòa bình’ hơn. Công nghệ sản xuất gạch nung thay đổi “đến chóng mặt”, năng suất lao động tăng cao, bảo vệ môi trường tốt hơn và nguồn nguyên liệu cũng đã thay đổi. Nguồn nguyên liệu sét dẻo chất lượng cao, gần như, không còn sử dụng để sản xuất gạch xây mà chuyển sang sản xuất các sản phẩm có giá trị kinh tế cao như ngói lợp, gạch ốp lát… Những cố gắng của doanh nghiệp, doanh nhân thật đáng trân trọng và đáng ghi nhận.
Quang Nguyễn