Hoạt động khai thác VLXD tại một mỏ đất, đá phục vụ dự án hạ tầng. Ảnh minh họa.
Bộ NN&MT đang dự thảo Nghị định sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 193/2025/NĐ-CP ngày 02/7/2025 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Địa chất và khoáng sản, nhằm giải quyết các vướng mắc trong triẻn khai văn bản pháp luật, trong đó có nội dung liên quan đến cơ chế đặc thù cho VLXD.
Theo Bộ NN&MT, nhu cầu về VLXD thông thường như cát, đá, đất san lấp cho các dự án đầu tư công, dự án trọng điểm là rất lớn. Nghị quyết số 66.4/2025/NQ-CP ngày 21/9/2025 đã cho phép cơ chế đặc thù cho khai thác khoáng sản nhóm III làm VLXD phục vụ các công trình, dự án đặc thù không phải thực hiện thủ tục quyết định/chấp thuận chủ trương đầu tư, thủ tục đất đai (trừ chuyển mục đích đất quốc phòng, an ninh), và thủ tục môi trường.
Bên cạnh đó, cần thể chế hóa rõ ràng việc mở rộng tiêu chí khu vực không đấu giá (Điều 143 Nghị định số 193/2025/NĐ-CP) để bao gồm các khoáng sản nhóm III làm VLXD phục vụ các công trình, dự án trọng điểm cấp tỉnh, các dự án quan trọng quốc gia, dự án đầu tư công khẩn cấp, công trình, hạng mục công trình thuộc chương trình mục tiêu quốc gia và các khu vực có khoáng sản phục vụ sản xuất xi măng/chế biến sâu.
Do đó, trong dự thảo Nghị định sửa đổi Nghị định 193/2025/NĐ-CP, nội dung về cơ chế đặc thù cho VLXD được thể hiện tập trung tại điểm 41 về sửa đổi khoản 5 và bổ sung khoản 10 và khoản 11 vào sau khoản 9 Điều 143 quy định về khu vực không đấu giá quyền khai thác khoáng sản.
Trước hết, dự thảo Nghị định sửa khoản 5 Điều 143 theo hướng: xác định khu vực khoáng sản để bảo đảm nguyên liệu, vật liệu cho các công trình, dự án, nhiệm vụ quy định tại khoản 1a Điều 55 của Luật Địa chất và khoáng sản. Thay vì liệt kê lại từng loại công trình, dự án trọng điểm, dự án đầu tư công khẩn cấp, chương trình mục tiêu quốc gia… dự thảo Nghị định dẫn chiếu trực tiếp sang khoản 1a Điều 55 của Luật - nơi sẽ định nghĩa rõ các “công trình, dự án, nhiệm vụ đặc thù”. Nhờ đó, các mỏ khoáng sản nhóm III làm VLXD thông thường phục vụ nhóm dự án đặc thù này được đưa vào diện khu vực không đấu giá.
Tiếp theo, dự thảo Nghị định bổ sung khoản 10 Điều 143 để xử lý nhóm khoáng sản phục vụ sản xuất xi măng và chế biến sâu. Theo đó, khu vực đá vôi, sét làm nguyên liệu sản xuất xi măng, khoáng sản là phụ gia điều chỉnh xi măng đã được xác định trong quy hoạch khoáng sản nhóm II, cùng với các khu vực khoáng sản được quy hoạch (hoặc quy hoạch tỉnh xác định) là nguồn nguyên liệu cho nhà máy chế biến khoáng sản đang hoạt động, đều được xếp vào khu vực không đấu giá. Quy định này bảo đảm tính ổn định, chủ động nguồn VLXD và nguyên liệu cho các cơ sở sản xuất xi măng, chế biến khoáng sản hiện hữu.
Ngoài ra, dự thảo còn bổ sung khoản 11 Điều 143 để bao quát các khu vực khoáng sản đã có đầy đủ cơ sở pháp lý: khu vực đã có kết quả thăm dò hoặc đang trong quá trình gia hạn, cấp lại, điều chỉnh Giấy phép thăm dò, Giấy phép khai thác, chuyển nhượng quyền thăm dò, quyền khai thác. Đối với các khu vực này, việc đưa vào diện không đấu giá giúp tránh tình trạng làm lại từ đầu về thủ tục đấu giá, đặc biệt với những mỏ đã có dự án đầu tư, hạ tầng khai thác - chế biến gắn liền, trong đó có nhiều mỏ VLXD phục vụ các dự án trọng điểm.
Nhìn tổng thể, cơ chế đặc thù về vật liệu xây dựng trong Nghị quyết số 66.4/2025/NQ-CP cho phép khai thác khoáng sản nhóm III phục vụ các dự án đặc thù mà không phải làm một số thủ tục đầu tư, đất đai, môi trường, đã được dự thảo Nghị định quy định chi tiết ở phần quản lý khoáng sản và đấu giá.
Việc sửa khoản 5 và bổ sung khoản 10, 11 Điều 143 đã xác định rõ những khu vực mỏ vừa phục vụ các dự án cấp bách, vừa là nguồn nguyên liệu cho xi măng, cho nhà máy chế biến, hoặc đã có đủ hồ sơ pháp lý, đều được đưa vào diện không phải đấu giá.
Cách làm này tạo ra sự thống nhất giữa chính sách “gỡ nút thắt thủ tục” của Chính phủ và công cụ quản lý khoáng sản, giúp bảo đảm nguồn vật liệu ổn định cho các dự án trọng điểm nhưng vẫn giữ nề nếp, không làm lỏng kỷ luật trong quản lý tài nguyên.