Chương trình phát triển vật liệu xây không nung (VLXKN) đến năm 2020 được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định 567/QĐ-TTg ngày 28/4/2010 (Chương trình 567). Sau 7 năm triển khai, chương trình đạt được một số thành quả nhưng những hạn chế cần khắc phục cũng không ít.
Cty CP Gạch Khang Minh là một trong những DN sản xuất và kinh doanh gạch không nung hiệu quả trên địa Hà Nội và các tỉnh lân cận.
Những thành quả khả quan
Chương trình 567 hướng đến mục tiêu chung là phát triển sản xuất và sử dụng VLXKN thay thế gạch đất sét nung, tiết kiệm đất nông nghiệp, góp phần bảo đảm an ninh lượng thực quốc gia, giảm thiểu khí phát thải gây hiệu ứng nhà kính và ô nhiễm môi trường; giảm chi phí xử lý phế thải của các ngành công nghiệp, tiết kiệm nhiên liệu than, đem lại hiệu quả chung cho xã hội.
Chương trình 567 đặt ra mục tiêu cụ thể gồm phát triển sản xuất và sử dụng VLXKN thay thế gạch đất sét nung đạt tỷ lệ 20 - 25% vào năm 2015; 30 - 40% vào năm 2020; hàng năm sử dụng khoảng 15 - 20 triệu tấn phế thải công nghiệp (tro xỉ nhiệt điện, xỉ lò cao...) để sản xuất VLXKN, tiết kiệm được khoảng 1.000 ha đất nông nghiệp và hàng trăm héc-ta diện tích đất chứa phế thải; tiến tới xóa bỏ hoàn toàn các cơ sở sản xuất gạch đất sét nung bằng lò thủ công…
Nhận định về thành quả Chương trình 567 đạt được sau 7 năm triển khai, ông Phạm Văn Bắc - Vụ trưởng Vụ VLXD cho biết, đến nay hệ thống cơ sở các văn bản pháp lý nhằm khuyến khích sản xuất và sử dụng VLXKN cơ bản đã được xây dựng đầy đủ. Hệ thống các tiêu chuẩn về sản phẩm, hướng dẫn thi công, định mức cơ bản đã được xây dựng, bổ sung, soát xét. Nhận thức của các bộ, ngành, chính quyền địa phương và cộng đồng về Chương trình đã được nâng lên. Nhiều địa phương đã có những giải pháp tốt để triển khai tốt chương trình. Đơn cử, Sở Xây dựng TP.HCM đã chủ trì tổ chức hội nghị liên kết vùng và đề ra giải pháp phát triển VLXKN cho cả vùng; tại hội nghị, các tỉnh liên kết đã ký hợp đồng hợp tác trong việc sản xuất và tiêu thụ VLXKN… Các địa phương cũng quyết liệt hơn trong việc xóa bỏ gạch thủ công, thủ công cải tiến và lò vòng sản xuất gạch đất sét nung. Các địa phương như TP. HCM, Bắc Ninh, Hải Dương đã xóa bỏ 100% lò gạch thủ công. Đặc biệt, Chương trình đã nhận được sự tham gia tích cực của DN, nhất là các DN tư nhân trong việc chủ động tìm hiểu công nghệ, đầu tư sản xuất, cung cấp cho thị trường nhiều sản phẩm VLXKN đạt chất lượng, từng bước đa dạng hóa các sản phẩm…
Thứ trưởng Bùi Phạm Khánh cũng cho biết, đến nay tổng công suất thiết kế của 3 loại sản phẩm gạch không nung (GKN) chính, gồm gạch block xi măng cốt liệu (gạch bê tông), gạch bê tông khí chưng áp, gạch bê tông bọt đạt khoảng 7 tỷ viên QTC/năm; sản xuất đạt 5,8 tỷ viên QTC/năm, chiếm khoảng 25% so với tổng sản lượng vật liệu; tiêu thụ tổng các loại khoảng trên 5,5 tỷ viên QTC/năm… Với sản lượng trên, ước tính hàng năm tiết kiệm được 8,5 triệu m3 đất sét (tương đương 412 ha đất khai thác ở độ sâu 2 m), 825 nghìn tấn than và giảm thải ra môi trường 3,1 triệu tấn CO2.
Những tồn tại, hạn chế
Bên cạnh những kết quả đạt được, Chương trình 567 vẫn còn một số những hạn chế cần khắc phục. Theo ông Phạm Văn Bắc, nhiều chính sách đưa ra chưa cụ thể, khi áp dụng vào thực tế, địa phương không thực hiện được. Ví dụ, cơ chế ưu đãi chỉ áp dụng với các dự án đầu tư mới còn các dự án đầu tư mở rộng thì không được hưởng thụ. Một số địa phương chưa thực sự quan tâm đến chương trình, hoặc chưa có giải pháp hữu hiệu nhằm tăng cường sử dụng VLXKN, hạn chế sản xuất và sử dụng gạch đất sét nung. Điển hình, tỉnh Bình Thuận là địa phương có sẵn nguồn nguyên liệu để sản xuất VLXKN và đã có nhà đầu tư, tuy vậy UBND tỉnh vẫn xin lùi thời gian thực hiện Thông tư 09/2012/TT-BXD của Bộ Xây dựng quy định sử dụng VLXKN trong các công trình xây dựng.
Bên cạnh đó, nhận thức của nhà đầu tư, nhà tư vấn thiết kế, nhà thầu, người tiêu dùng về VLXKN còn chưa đầy đủ, thậm chí không nắm được các quy định của Nhà nước. Điển hình, công trình trụ sở văn phòng làm việc không thường xuyên của các cơ quan Quốc hội tại Đà Nẵng, Trụ sở Cục thuế TP Đà Nẵng… được xây dựng bằng nguồn vốn Nhà nước nhưng đã không thiết kế sử dụng VLXKN theo quy định.
Về phía các DN sản xuất VLXKN, theo phân tích của ông Phạm Văn Bắc, do các DN còn thiếu kinh nghiệm, nguồn vốn hạn chế nên phần lớn nhập các dây chuyền với công nghệ trung bình, thiếu đồng bộ. Công tác chuyển giao công nghệ, kỹ thuật sản xuất và tiếp thu công nghệ chưa tốt, các nhà máy vừa phải sản xuất vừa điều chỉnh, khắc phục các mặt yếu để ổn định sản xuất. Một số nhà máy do hiểu biết về tính năng sản phẩm chưa đầy đủ nên công tác bảo quản sản phẩm khi lưu kho và vận chuyển chưa đúng đã gây ảnh hưởng đến chất lượng sản phẩm lúc đưa vào công trình.
Đặc biệt, các nhà máy bê tông nhẹ (khí chưng áp) ra đời vào đúng lúc kinh tế đất nước gặp khó khăn, lạm phát cao, đầu tư công bị cắt giảm, thị trường BĐS trầm lắng, chi phí tài chính lớn, do đó sản phẩm tiêu thụ chậm, hàng tồn kho lớn, dẫn đến sản xuất bị ngừng trệ…