Ngày 26/6, Bộ Công thương đã tổ chức Diễn đàn "Sử dụng năng lượng tiết kiệm, hiệu quả: Thành quả và mục tiêu trong kỷ nguyên vươn mình". Đây là sự kiện nhằm phổ biến thông tin về Luật Sử dụng năng lượng tiết kiệm, hiệu quả vừa được thông qua tại kỳ họp thứ 9 Quốc hội khóa XIV, ngày 18/6.
Một trong những nội dung đáng chú ý là dán nhãn năng lượng cho vật liệu và công trình xây dựng. Bộ Xây dựng đã xây dựng bộ tiêu chuẩn và hoàn toàn sẵn sàng triển khai khi Luật có hiệu lực.
Trong tương lai gần, các dự án bất động sản, đặc biệt là công trình nhà ở để bán hoặc cho thuê sẽ từng bước phải công bố mức tiêu thụ năng lượng, mức phát thải tương ứng. Điều này giúp người dân có thể lựa chọn công trình tiết kiệm năng lượng, thân thiện môi trường, tạo nên xu hướng tiêu dùng mới.
Dán nhãn năng lượng cho vật liệu xây dựng
Bà Nguyễn Thị Tâm, đại diện Viện Vật liệu xây dựng (Bộ Xây dựng) cho hay, ngành xây dựng hiện chiếm hơn 1/3 tổng tiêu thụ năng lượng và lượng khí thải toàn cầu. Riêng nhu cầu sưởi ấm và làm mát không gian chiếm tới 61% tổng năng lượng tiêu thụ của ngành. Tại Việt Nam - quốc gia có khí hậu nhiệt đới gió mùa nóng ẩm, lượng điện tiêu thụ cho điều hòa, thông gió và chiếu sáng là rất lớn.
Chương trình quốc gia về sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả giai đoạn 2019–2030 đặt mục tiêu đến năm 2025 có ít nhất 80 công trình được chứng nhận công trình xanh và đến năm 2030 là 150 công trình. Đồng thời, sẽ dán nhãn năng lượng cho 50% các sản phẩm vật liệu xây dựng có yêu cầu cách nhiệt sử dụng trong công trình.
Bộ Xây dựng là đơn vị được giao chủ trì triển khai chương trình, bao gồm xây dựng hệ thống đánh giá, chứng nhận công trình, thiết lập tiêu chuẩn kỹ thuật, nâng cao năng lực phòng thử nghiệm và phát triển nhãn năng lượng cho vật liệu xây dựng.
Về triển khai yêu cầu trên, ông Nguyễn Công Thịnh, Phó vụ trưởng Vụ Khoa học công nghệ, môi trường và Vật liệu xây dựng (Bộ Xây dựng) cho hay, Việt Nam có đủ căn cứ, năng lực để thực hiện. Song, cần hoàn thiện khung pháp lý, thúc đẩy dán nhãn năng lượng cho vật liệu xây dựng. Hiện, Bộ Xây dựng đang nghiên cứu để trong một vài năm tới đưa ra định mức tiêu hao năng lượng cho việc sản xuất vật liệu xây dựng, chẳng hạn như xi măng, kính, vật liệu… Để từ đó, doanh nghiệp có cơ sở để giảm mốc tiêu hao năng lượng dưới ngưỡng tối đa.
Liên quan đến phát triển đô thị, ông Nguyễn Công Thịnh cho biết Bộ Xây dựng đang phối hợp nghiên cứu xây dựng Luật Quản lý và Phát triển đô thị theo hướng xanh, thông minh và bền vững. Trong đó, các yếu tố như cây xanh, mặt nước, chiếu sáng thông minh, giao thông thân thiện môi trường và hạ tầng sử dụng năng lượng hiệu quả sẽ được tích hợp thành tiêu chí đánh giá.
Về cơ chế ưu đãi, theo báo cáo của ngân hàng Nhà nước, hiện có khoảng 47 tổ chức tín dụng, tổng dư nợ khoảng hơn 600 nghìn tỷ cho vay các dự án xanh. Bộ Nông nghiệp và Môi trường cũng đang chuẩn bị hoàn thành và trình chính phủ ban hành các danh mục, tiêu chí môi trường cho dự án xanh. Trong đó, bao gồm tất cả các lĩnh vực, ví dụ như ngành xây dựng sẽ bao gồm tòa nhà, cơ sở sản xuất vật liệu xây dựng, hạ tầng giao thông như cảng, doanh nghiệp vận tải… Như vậy, nếu doanh nghiệp đầu tư các giải pháp xanh, chuyển đổi công nghệ phát thải thấp, các dự án sẽ được ưu đãi theo chính sách của nhà nước.
Với việc kiểm toán năng lượng, ông Thịnh thông tin, trong lĩnh vực tòa nhà đã có quy chuẩn, quy trình kiểm toán. Đối với các cơ sở vật liệu cũng không phải vấn đề mới, bởi trước đây đã có yêu cầu các doanh nghiệp trọng điểm 3 năm phải kiểm toán được một lần, còn các doanh nghiệp thông thường có thể tự nguyện thực hiện.
"Các UBND các tỉnh phải tăng cường kiểm tra, thanh tra việc chấp hành quy định về năng lượng chứ không phải như trước đây, các quy định có nhưng việc đôn đốc và quyết tâm thực hiện còn mang tính chất khuyến khích nhiều quá", ông Thịnh kiến nghị.
Kỳ vọng Quỹ thúc đẩy sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả hỗ trợ doanh nghiệp chuyển đổi
Ông Đặng Hải Dũng, Phó Cục trưởng Cục Đổi mới sáng tạo, Chuyển đổi xanh và Khuyến công (Bộ Công Thương) cho biết: Trong bối cảnh kinh tế thế giới đang thay đổi sâu sắc, Việt Nam sẽ phải đối mặt với nhiều thách thức trong 5–10 năm tới, đặc biệt là các vấn đề liên quan đến thương mại và môi trường. Những rào cản phi thuế quan mới, như cơ chế điều chỉnh biên giới carbon (CBAM) của châu Âu sẽ chính thức áp dụng từ năm 2026 và các chính sách thuế carbon của Mỹ là minh chứng rõ ràng cho xu hướng toàn cầu đang siết chặt yêu cầu về phát thải và truy xuất nguồn gốc carbon.
Các quốc gia và đối tác thương mại lớn như châu Âu sẽ yêu cầu các sản phẩm xuất khẩu từ Việt Nam phải chứng minh rõ mức tiêu thụ năng lượng và lượng phát thải trong toàn bộ chuỗi sản xuất, từ nguyên liệu đầu vào, quy trình sản xuất đến sản phẩm hoàn chỉnh. Truy xuất phát thải carbon sẽ trở thành yêu cầu bắt buộc.
Vì vậy, quản lý năng lượng trong thời gian tới sẽ phải chuyển từ hình thức khuyến khích sang bắt buộc, đặc biệt là trong giám sát tiêu thụ năng lượng tại các doanh nghiệp sản xuất hàng hóa xuất khẩu. Điều này đòi hỏi minh bạch hóa dữ liệu, có hệ thống đo lường, thống kê, giám sát và báo cáo xuyên suốt, nhằm đáp ứng các tiêu chuẩn quốc tế khắt khe.
Cũng theo ông Dũng, nhiều nhãn hàng quốc tế hiện yêu cầu doanh nghiệp Việt Nam phải công khai trực tuyến thông tin về mức tiêu thụ năng lượng, phát thải CO₂, thậm chí cập nhật theo thời gian thực. Đây là xu hướng không thể đảo ngược.
Liên quan đến công cụ tài chính xanh, ông Dũng chia sẻ, trong lần sửa đổi Luật Sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả lần này, Bộ Công Thương đã đề xuất thành lập Quỹ thúc đẩy sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả, Luật vừa được Quốc hội thông qua vào ngày 18/6/2025.
Quỹ thúc đẩy sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả sẽ có sự đóng góp một phần từ ngân sách nhà nước, nhưng hoạt động theo cơ chế xã hội hóa, bảo toàn vốn và vận hành linh hoạt. Quan trọng hơn, quỹ sẽ cung cấp các công cụ hỗ trợ tài chính như bảo lãnh tín dụng, cho vay lãi suất thấp, hoặc trợ cấp chi phí vay vốn đối với các doanh nghiệp đầu tư vào công nghệ tiết kiệm năng lượng.
Ông Dũng cho biết, kinh nghiệm thực tiễn cho thấy, nhiều tổ chức quốc tế như Ngân hàng Thế giới (World Bank), Chính phủ Đan Mạch… sẵn sàng cung cấp các nguồn vốn vay ưu đãi để hỗ trợ cho các dự án tiết kiệm năng lượng tại Việt Nam. Tuy nhiên, để tiếp cận được các nguồn vốn này, Việt Nam cần có cơ chế tài chính trung gian hiệu quả, có thể đảm bảo an toàn dòng vốn và hỗ trợ triển khai đúng mục tiêu.
Do vậy, kỳ vọng đặt vào Quỹ thúc đẩy sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả lần này là rất lớn. Không chỉ tháo gỡ nút thắt tài chính cho các dự án đầu tư quy mô lớn, vốn có thể lên tới hàng chục triệu USD, Quỹ còn mở ra cơ hội để Việt Nam mở rộng hợp tác quốc tế trong lĩnh vực tiết kiệm năng lượng, góp phần thực hiện mục tiêu giảm phát thải và phát triển bền vững theo đúng cam kết tại COP26.