 |
INSEE Việt Nam tiên phong áp dụng công nghệ đồng xử lý chất thải trong lò nung xi măng. |
Tiết kiệm năng lượng là yêu cầu bắt buộc
Hiện nay, 2 nguồn năng lượng chính sử dụng để sản xuất xi măng (XM) là điện và than. Theo báo cáo của Vụ Khoa học công nghệ, môi trường và Vật liệu xây dựng (Bộ Xây dựng), chi phí năng lượng điện năng chiếm khoảng 10 - 15% giá thành sản xuất XM, bình quân để sản xuất 1 tấn XM sẽ tiêu thụ khoảng hơn 100kWh điện.
Việc giá điện tăng sẽ khiến chi phí đầu vào của ngành sản xuất XM tăng thêm từ vài trăm triệu đến vài chục tỷ đồng mỗi tháng. Nhưng dù chi phí sản xuất tăng thì giá bán XM vẫn giảm do… cung lớn hơn cầu. Thực tế này đòi hỏi các doanh nghiệp XM phải đổi mới công nghệ và sáng tạo để sản xuất xanh, tiết kiệm tài nguyên, sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả, từ đó giảm chi phí sản xuất, giảm giá thành sản phẩm, tăng cường tính cạnh tranh trên thị trường.
Mặt khác, việc Liên minh châu Âu áp dụng Cơ chế điều chỉnh biên giới carbon (CBAM) từ ngày 01/01/2026 cũng sẽ buộc các doanh nghiệp Việt Nam (trong đó có doanh nghiệp XM) phải thay đổi phương thức sản xuất theo hướng xanh, tiết kiệm tài nguyên, năng lượng và giảm phát thải khí nhà kính.
Theo tính toán của Hiệp hội Năng lượng Việt Nam, 75% năng lượng sử dụng sơ cấp trong nhà máy sản xuất XM là nhiệt năng và 1 tấn nhiệt khí thải có thể sản xuất ra 3 - 5 kWh điện. Nếu tất cả nhà máy sản xuất XM tận dụng nhiệt thải từ các lò nung clinker để phát điện, mỗi năm sẽ tận dụng được khoảng 1,5 tỷ kWh.
Như vậy, công nghệ thu hồi nhiệt thải trong quá trình sản xuất XM có thể tạo ra đến 30% nhu cầu điện năng của một nhà máy. Giải pháp này vừa đảm bảo không lãng phí năng lượng, vừa xử lý một lượng lớn bụi và khí thải, qua đó góp phần bảo vệ môi trường sống xung quanh.
Doanh nghiệp đã triển khai đồng bộ nhiều giải pháp
Rõ ràng, bài toán tiết kiệm năng lượng đang được ngành XM và các doanh nghiệp sản xuất XM đặc biệt quan tâm. Báo cáo của Vụ Khoa học công nghệ, môi trường và Vật liệu xây dựng cho biết, từ năm 2011 đến nay, các doanh nghiệp sản xuất XM đã triển khai thực hiện nhiều giải pháp tiết kiệm năng lượng, nổi bật là việc các dây chuyền sản xuất XM được đầu tư đồng bộ hệ thống nhiệt khí thải để phát điện, đảm bảo tiết kiệm khoảng 25 – 30% lượng điện sản xuất. Một số nhà máy XM thậm chí còn đầu tư điện năng lượng mặt trời để phát điện…
Là một trong những doanh nghiệp sản xuất XM hàng đầu tại Việt Nam, Công ty XM INSEE Việt Nam luôn dành sự quan tâm rất lớn cho việc chuyển đổi xanh, sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả.
Trong những năm qua, công ty không ngừng đầu tư mới, áp dụng các công nghệ tốt nhất hiện có để tối ưu hóa hoạt động khai thác, sử dụng hiệu quả các nguồn tài nguyên thiên nhiên và năng lượng, tích cực bảo vệ môi trường và đạt được các mục tiêu phát triển bền vững.
Ngay từ những ngày đầu vận hành nhà máy XM Hòn Chông (nhà máy sản xuất XM lớn nhất của INSEE tại Việt Nam) đã sử dụng máy nghiền đứng (Vertical Roller Mill - VRM) tiêu thụ năng lượng ít hơn khoảng 20% năng lượng so với loại nén ép băng con lăn và máy nghiền bi.
Năm 2005, INSEE bắt đầu áp dụng công nghệ đồng xử lý chất thải trong lò nung XM - Ecocycle, giúp các nhà máy sản xuất của công ty giảm tiêu hao các nhiên liệu truyền thống như than, dầu diesel… Riêng nhà máy XM Hòn Chông đã đồng xử lý hơn 1,6 triệu tấn chất thải để thay thế than đá và gián tiếp giảm phát thải hơn 1,5 triệu tấn CO2.
 |
Các doanh nghiệp xi măng đang chủ động và tích cực triển khai nhiều giải pháp để sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả. |
Không những thế, giải pháp này giúp tạo ra tỷ lệ nhiệt thay thế hơn 30% trong các năm qua. Hiện nay, INSEE Việt Nam đạt tỷ lệ nhiệt thay thế từ việc đồng xử lý chất thải khoảng 38%. Trong thời gian tới, nhà máy XM Hòn Chông đặt mục tiêu nâng tỷ lệ này cao hơn qua từng năm, từ đó giảm tiêu thụ nhiên liệu truyền thống không thể tái tạo, góp phần giảm mức phát thải CO2 ra ngoài môi trường.
Từ năm 2011 đến nay, nhà máy XM Hòn Chông đã thu hồi nhiệt trong quá trình sản xuất XM để chạy máy phát điện. Cách làm này giúp tạo ra lượng điện năng bù vào một phần năng lượng phải mua từ lưới điện quốc gia. Ước tính, lượng điện tạo ra từ lượng nhiệt được thu hồi trong quá trình sản xuất đáp ứng tới 25% nhu cầu điện năng của nhà máy XM Hòn Chông. Lượng điện này tương đương với lượng điện năng cho khoảng 18.000 hộ dân và gián tiếp tiết kiệm khoảng 25.000 tấn khí thải CO2 trong một năm.
Từ năm 2018, INSEE Việt Nam cũng bắt đầu sử dụng tro bay trong nguyên liệu sản xuất XM, từ đó tăng năng suất nghiền và giảm lượng điện năng tiêu thụ cho quá trình nghiền.
Ngoài những giải pháp chính nêu trên, INSEE Việt Nam còn không ngừng thay thế, nâng cấp hệ thống trang thiết bị đã cũ hoặc tiêu thụ nhiều năng lượng bằng các sản phẩm tiết kiệm năng lượng, ví như thay búa đập clinker bằng trục ép (tiết kiệm 1,2% năng lượng so với giải pháp cũ); sửa chữa, nâng cấp hệ thống phát điện nhiệt thải, lắp lọc bụi by-pass cho lò nung (tiết kiệm năng lượng 5,2%)…
Ông Đào Nguyên Khánh, Trưởng Bộ phận Phát triển Bền vững và Truyền thông Doanh nghiệp INSEE Việt Nam chia sẻ: “Trong thời gian tới, nhà máy XM Hòn Chông sẽ tiếp tục đầu tư vào các công nghệ tiên tiến để tăng hiệu quả sử dụng năng lượng trong sản xuất và tăng thêm nguyên nhiên liệu thay thế thông qua giải pháp quản lý chất thải Ecocycle”.
Cần thêm hỗ trợ của cơ quan quản lý Nhà nước
Mặc dù, các doanh nghiệp XM đang rất chủ động và tích cực áp dụng các giải pháp công nghệ và sáng tạo để sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả, nhưng thực tế vẫn còn nhiều trở ngại.
Ví dụ, đại diện của INSEE Việt Nam cho rằng, việc áp dụng công nghệ đồng xử lý chất thải trong lò nung XM tại nước ta đang gặp 2 vướng mắc chính. Thứ nhất là nguồn chất thải đầu vào chưa được đảm bảo. Để có thể áp dụng công nghệ đồng xử, chất thải phải được phân loại và xử lý đúng quy chuẩn để đạt hiệu quả tối ưu. Tuy nhiên, việc phân loại chất thải tại nước ta chưa được thực hiện đồng bộ và hiệu quả nên hiệu suất của quy trình đồng xử lý cũng bị giảm mạnh. Thứ hai là công nghệ đồng xử lý có chi phí đầu tư rất cao nên nhiều doanh nghiệp vẫn chọn giải pháp chôn lấp hay đốt rác thải vốn có chi phí thấp hơn rất nhiều.
Do đó, INSEE Việt Nam có đề xuất Chính phủ hỗ trợ tạo lập thị trường cho hoạt động đồng xử lý trong lò nung XM, xem xét công nhận hoạt động đồng xử lý là một trong những giải pháp đáp ứng cho EPR (trách nhiệm mở rộng của nhà sản xuất) đối với các loại nhựa có giá trị thấp. Điều này sẽ góp phần tạo ra một thị trường chất thải khả thi để các lò nung XM tham gia và cho phép một lượng lớn chất thải được đồng xử lý một cách có trách nhiệm.
Bên cạnh đó, các cơ chế, chính sách về thuế, môi trường để khuyến khích, hỗ trợ các doanh nghiệp XM trong việc đầu tư hệ thống phát điện sử dụng nhiệt thừa và sử dụng các nguyên liệu thay thế là phế thải của các ngành công nghiệp như tro xỉ, thạch cao nhân tạo… sử dụng làm nguyên liệu sản xuất XM còn chưa đồng bộ, cụ thể.
Phó Vụ trưởng Vụ Khoa học công nghệ, môi trường và Vật liệu xây dựng Hoàng Hữu Tân cho rằng, để giải quyết những khó khăn của doanh nghiệp XM, cơ quan quản lý Nhà nước cần phải thực hiện đồng bộ một số giải pháp.
Đó là rà soát các cơ chế, chính sách, thể chế để khuyến khích đầu tư phát triển ngành Vật liệu xây dựng nhanh và bền vững, phục vụ sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp; ban hành các chính sách ưu đãi về đầu tư hệ thống tận dụng nhiệt thừa khí thải dây chuyền để sản xuất điện, sử dụng rác thải sinh hoạt, rác thải công nghiệp, phế thải một số ngành công nghiệp như tro xỉ, thạch cao… làm nhiên liệu, nguyên liệu thay thế trong sản xuất XM.
Trong khi đó, các doanh nghiệp cần chủ động thực hiện đổi mới, áp dụng công nghệ sản xuất và phương thức quản lý hiện đại, nâng cao năng suất, chất lượng, giảm giá thành sản phẩm; đầu tư nâng cấp, cải tạo chiều sâu đổi mới công nghệ, thiết bị để giảm chi phí sản xuất, tiết kiệm năng lượng, tài nguyên thiên nhiên, bảo vệ môi trường; rà soát, cắt giảm chi phí sản xuất đối với nguyên liệu, nhiên liệu than, dầu, khí đốt và điện…