Hội thảo có sự tham dự của PGS.TS Phạm Minh Hà – Cục trưởng Cục Giám định Nhà nước về chất lượng công trình xây dựng; Ths.Phạm Văn Bắc - Vụ trưởng Vụ Vật liệu xây dựng; PGS.TS Vũ Ngọc Anh – Vụ trưởng Vụ Khoa học công nghệ và môi trường; PGS.TS Lê Trung Thành - Viện trưởng Viện Vật liệu Xây dựng; bà Đỗ Nguyệt Ánh - Phó Vụ trưởng Vụ Hợp tác quốc tế; cùng đại diện các Cục, Vụ, Viện thuộc Bộ Xây dựng; đại diện các Hiệp hội: Hội Vật liệu xây dựng; Hiệp hội Nhà thầu Xây dựng Việt Nam, Hội Kiến trúc sư Việt Nam, Hiệp hội bất động sản Việt Nam cùng các chuyên gia vật liệu xây dựng, chuyên gia về kiến trúc; đại diện các doanh nghiệp sản xuất vật liệu xây dựng; các công ty thiết kế, kiến trúc xây dựng….
Một số năm gần đây, sự biến đổi của khí hậu đã làm cho môi trường sống của con người ngày càng bị đe dọa, tạo sức ép buộc các quốc gia phải chú trọng phát triển kinh tế theo hướng tăng trưởng xanh. Phát triển các loại vật liệu xây dựng thông minh, tiết kiệm năng lượng, thân thiện môi trường, đây cũng là xu thế tất yếu, là mục tiêu hướng tới của ngành công nghiệp sản xuất vật liệu xây dựng. Để đạt được mục tiêu này, các sản phẩm vật liệu phải đáp ứng được yêu cầu: Tiêu tốn ít năng lượng hơn cho việc tạo ra nó và giúp tiết kiệm được năng lượng tiêu thụ cho công trình xây dựng khi đưa vào sử dụng.
|
Toàn cảnh Hội thảo “Xu hướng công nghệ vật liệu trong công trình xây dựng” |
Ngoài ra Chiến lược phát triển vật liệu xây dựng Việt Nam thời kỳ 2021 - 2030, định hướng đến năm 2050 được xây dựng dựa trên 6 quan điểm nhất quán. Trong đó, phát triển ngành Vật liệu xây dựng hiệu quả, bền vững, đáp ứng cơ bản nhu cầu trong nước, từng bước tăng cường xuất khẩu, góp phần thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế - xã hội; Tiếp cận và ứng dụng nhanh nhất các thành tựu khoa học, công nghệ, quản lý nhất là cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư; Sử dụng hiệu quả tài nguyên, triệt để tiết kiệm năng lượng, nguyên liệu, nhiên liệu; Hạn chế tối đa ảnh hưởng tới môi trường trong quá trình khai thác, chế biến khoáng sản làm vật liệu xây dựng và sản xuất vật liệu xây dựng…
Với chủ đề “Xu hướng công nghệ - vật liệu trong công trình xây dựng”, Hội thảo sẽ tập trung đi sâu phân tích những thực trạng của thị trường vật liệu xây dựng hiện nay và giới thiệu những xu hướng công nghệ vật liệu xây dựng mới, ứng dụng trong kiến trúc và công trình xây dựng. Đây cũng là dịp để các nhà quản lý lắng nghe ý kiến từ nhà sản xuất, doanh nghiệp kinh doanh vật liệu xây dựng xoay quanh câu chuyện sản xuất kinh doanh, trong đó có những bất cập, vướng mắc trong sản xuất, tiêu thụ vật liệu xây dựng trong bối cảnh hiện nay.
Phát biểu khai mạc Hội thảo, ông Nguyễn Anh Dũng – Tổng biên tập Báo Xây dựng cho biết: Sản xuất và sử dụng vật liệu xây dựng có vai trò quan trọng, đóng góp vào sự phát triển chung của ngành xây dựng và của ngành công nghiệp nói chung, tạo động lực phát triển kinh tế - xã hội. Trong những năm vừa qua, ngành sản xuất vật liệu xây dựng đã phát triển mạnh về số lượng, chất lượng và chủng loại, đáp ứng ngày càng cao nhu cầu về xây dựng kết cấu hạ tầng, phát triển đô thị và nhà ở. Giá trị vật liệu xây dựng thường thường chiếm 60% - 70% trong cơ cấu giá thành công trình xây dựng vì vậy chất lượng, giá thành vật liệu xây dựng quyết định rất lớn đến chất lượng và giá thành xây dựng công trình.
|
Ông Nguyễn Anh Dũng – Tổng biên tập Báo Xây dựng phát biểu khai mạc Hội thảo. |
Ông Nguyễn Anh Dũng cũng cho biết: Hiện nay các giải pháp, các xu hướng công nghệ mới từ ngành Vật liệu xây dựng rất nhiều và đa dạng, từ đổi mới các vật liệu truyền thống và cải thiện các tính năng sẵn có, đến việc tạo ra các tổ hợp vật liệu mới có thêm nhiều tính năng, cho đến các vật liệu mới và tính năng hoàn toàn mới. Có rất nhiều loại vật liệu xây dựng và hoàn thiện tiên tiến đã được đưa ra thị trường hoặc đang tiếp cận thị trường. Mặc dù có nhiều tiềm năng lớn, nhưng các loại vật liệu mới vẫn khó thâm nhập thị trường, chưa nói đến việc đạt được sự chấp nhận rộng rãi. Hội thảo ngày hôm nay có sự tham gia của các nhà quản lý, hoạch định chính sách, các chủ đầu tư, nhà sản xuất và các chuyên gia trong lĩnh vực vật liệu xây dựng.
Đây là dịp để phân tích thực trạng thị trường vật liệu xây dựng, phân tích bức tranh toàn diện và giới thiệu những xu hướng công nghệ vật liệu xây dựng mới, ứng dụng trong kiến trúc và công trình xây dựng. Đồng thời, các nhà quản lý cũng được lắng nghe ý kiến từ nhà sản xuất, doanh nghiệp kinh doanh vật liêu xây dựng về những bất cập, vướng mắc trong sản xuất, tiêu thụ vật liệu xây dựng trong bối cảnh hiện nay. Nhận diện những thách thức cũng như thời cơ để kịp thời đưa ra chính sách khuyến khích phát triển phục vụ ngành Vật liệu Xây dựng, góp phần tạo giá trị và thu cho quốc gia hoặc cảnh báo những nguy cơ xấu nếu có.
Phát biểu tại Hội thảo, Vụ trưởng Vụ Vật liệu xây dựng Phạm Văn Bắc cho biết: Có thể thấy, sản xuất vật liệu xây dựng đóng vai trò quan trọng trong việc xây dựng, đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế, xã hội của đất nước. Trong 15 năm qua, ngành vật liệu xây dựng đã phát triển vô cùng mạnh mẽ, Việt Nam từ một nước nhập khẩu hầu hết vật liệu, cho đến nay đã từng bước phát triển mạnh mẽ. Đến năm 2010, cơ bản Việt Nam đã sản xuất được những sản phẩm vật liệu xây dựng, đáp ứng được nhu cầu xây dựng trong nước và xuất khẩu.
|
Ths.Phạm Văn Bắc - Vụ trưởng Vụ Vật liệu xây dựng (Bộ Xây dựng) phát biểu tại Hội thảo. |
Ths.Phạm Văn Bắc - Vụ trưởng Vụ Vật liệu xây dựng (Bộ Xây dựng) cũng cho biết: Sản xuất vật liệu xây dựng ngày nay đang có xu hướng phát triển các vật liệu xanh, thân thiện với môi trường. Ngày 18/8/2020, tại Quyết định 1266/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ, đã chính thức phê duyệt Chiến lược phát triển vật liệu xây dựng thời kỳ 2021-2030, định hướng đến 2050. Chiến lược được xây dựng trên 6 quan điểm, trong đó quan điểm phát triển vật liệu xây dựng hiệu quả bền vững, đáp ứng nhu cầu trong nước và xuất khẩu, tiếp cận, ứng dụng thành tựu khoa học công nghệ thế giới, quản lý vật liệu và sử dụng hiệu quả tài nguyên năng lượng, nhiên liệu, hạn chế ảnh hưởng môi trường là điều quan trọng.
Mục tiêu của chiến lược là sản xuất vật liệu xây dựng đạt trình độ tiên tiến hiện đại, đạt tiêu chuẩn quốc tế, tiết kiệm năng lượng, vật liệu có sức cạnh tranh cao, loại bỏ các công nghệ cũ, lạc hậu tiêu tốn nhiều tài nguyên…Từ mục tiêu, quan điểm trên, các doanh nghiệp trong và ngoài nước đã và đang triển khai sản xuất vật liệu xây dựng hết sức tích cực, song song đó là biện pháp quản lý của cơ quan quản lý Nhà nước như xây dựng tiêu chuẩn, quy chuẩn, quản lý vật liệu xây dựng được tăng cường.
Hội thảo lần này là tiền đề để doanh nghiệp, chuyên gia, cơ quan quản lý Nhà nước về vật liệu xây dựng có cơ hội thảo luận, giới thiệu những công nghệ, sản phẩm vật liệu xây dựng mới, tạo sức hút cho thị trường.
Ông Nguyễn Quang Hiệp - Phó Vụ trưởng Vụ Vật liệu xây dựng (Bộ Xây dựng): Phát triển vật liệu xây dựng đã từng bước được chú trọng hơn theo hướng phát triển bền vững, bảo vệ môi trường
|
Ông Nguyễn Quang Hiệp - Phó Vụ trưởng Vụ Vật liệu xây dựng (Bộ Xây dựng) |
Hiện nay, phát triển vật liệu xây dựng của nước ta đã bắt đầu hướng đến áp dụng tiến bộ khoa học công nghệ, sử dụng hiệu quả tài nguyên, bảo vệ môi trường; đảm bảo an ninh kinh tế; chủ động hội nhập quốc tế; hình thành các điều kiện cơ bản cho nền kinh tế xanh, ít chất thải rắn, phát thải các-bon thấp.
Trên tất cả các lĩnh vực sản xuất vật liệu xây dựng đều có sự chuyển biến tích cực. Các dây chuyền sản xuất theo công nghệ lạc hậu, năng suất thấp, tiêu tốn nguyên liệu, nhiên liệu, hiệu quả thấp, gây ô nhiễm môi trường từng bước được loại bỏ. Các nhà máy mới được đầu tư áp dụng công nghệ tiên tiến, thiết bị hiện đại, nhiều dây chuyền được trang bị mức độ cơ giới hóa, tự động hóa cao, trình độ công nghệ đạt ngang bằng với các nước tiên tiến trên thế giới. Phát triển vật liệu xây dựng đã từng bước được chú trọng hơn theo hướng phát triển bền vững, bảo vệ môi trường. Công suất thiết kế và sản lượng một số sản phẩm vật liệu xây dựng đã tăng gấp 2 đến 3 lần so với thời kỳ 10 - 15 năm trước. Mẫu mã sản phẩm đa dạng, phong phú, chất lượng sản phẩm đạt tiêu chuẩn của các nước phát triển đáp ứng đủ nhu cầu ngày càng cao và đa dạng của thị trường trong nước, từng bước thay thế hàng nhập khẩu và đã xuất khẩu ra thị trường thế giới.
Kinh tế, xã hội Việt Nam đang trên đà phát triển, quá trình đô thị hoá đang diễn ra nhanh chóng, nhu cầu xây dựng kết cấu hạ tầng lớn, tạo ra nhu cầu rất lớn về sản xuất và tiêu thụ vật liệu xây dựng. Cùng với sự phát triển vượt bậc của khoa học - công nghệ ở các lĩnh vực khác như cơ khí, điện tử, công nghệ thông tin, công nghệ hóa học đã giúp cho lĩnh vực sản xuất vật liệu xây dựng tăng năng suất, giảm chi phí và cho ra đời nhiều vật liệu mới, có tính năng ngày càng cao.
Bên cạnh đó, hành lang pháp lý, hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật ngày càng đầy đủ, hoàn thiện tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư. Hệ thống quản lý về chất lượng sản phẩm vật liệu xây dựng (quy chuẩn, tiêu chuẩn) cũng ngày càng được bổ sung, hoàn thiện, hài hòa lợi ích giữa nhà sản xuất và người tiêu dùng.
Tuy nhiên, bên cạnh những thuận lợi, ngành sản xuất vật liệu xây dựng cũng gặp phải nhiều thách thức đó là: Tài nguyên khoáng sản ngày càng cạn kiệt, cần phải có giải pháp, công nghệ để sử dụng nguyên liệu có chất lượng thấp, tận dụng phế thải từ các ngành khác; Nhiên liệu hoá thạch ngày càng khan hiếm, chi phí cho nhiên liệu, năng lượng ngày một tăng cao; Các yêu cầu về bảo vệ môi trường, giảm phát thải khí nhà kính tạo ra các thách thức không nhỏ khiến ngành sản xuất vật liệu xây dựng cần phải có thay đổi mạnh mẽ về công nghệ sản xuất.
Ngoài ra, Chiến lược phát triển vật liệu xây dựng Việt Nam đã định hướng phát triển ngành sản xuất vật liệu xây dựng theo hướng sản xuất vật liệu xây dựng đạt trình độ tiên tiến, hiện đại; triệt để tiết kiệm tài nguyên khoáng sản, tận dụng tối đa chất thải từ các ngành khác; sử dụng năng lượng tiết kiệm, hiệu quả; giảm các chỉ số phát thải nhằm bảo vệ môi trường. Để đáp ứng các tiêu chí được định hướng trong Chiến lược, việc lựa chọn công nghệ sản xuất đối với một số chủng loại sản phẩm VLXD sẽ theo hướng sau:
Sản xuất xi măng: Các dây chuyền công suất lớn trên 5.000 tấn/ngày; có hệ thống calciner, sử dụng thiết bị nghiền đứng con lăn thay cho nghiền bi, có hệ thống tận dụng nhiệt thừa khí thải để phát điện; các chỉ tiêu tiêu thụ năng lượng và phát thải thấp.
Sản xuất vật liệu gốm ốp lát: Các dây chuyền công suất lớn, linh hoạt trong thay đổi mẫu mã sản phẩm. Các chỉ tiêu tiêu hao nhiên liệu, năng lượng thấp.
Sản xuất đá ốp lát tự nhiên: Công nghệ khoan, nêm tách, cắt dây kim cương và cưa đĩa, hạn chế tối đa khoan nổ mìn; Đối với công nghệ sản xuất đá ốp lát nhân tạo: xu hướng lựa chọn công nghệ là sản xuất sản phẩm khổ lớn, mức độ tự động hóa cao, sử dụng hệ thống ép, hút chân không để sản phẩm đạt mật độ cao; ứng dụng tối đa công nghệ thông tin tạo mẫu sản phẩm có tính thẩm mỹ cao.
Sản xuất sứ vệ sinh: Dây chuyền có khả năng thay đổi mẫu mã linh hoạt, sử dụng khuôn đúc rót thế hệ mới (bằng kim loại) quay vòng nhiều lần; sản xuất với mức tiêu hao nguyên, nhiên vật liệu và mức phát thải ra môi trường thấp.
Sản xuất kính xây dựng: Công nghệ kính nổi sản xuất các sản phẩm khổ lớn; kính cường lực, kính an toàn, kính tiết kiệm năng lượng (kính Low-E, Solar control có hệ số truyền nhiệt U-Value, độ truyền tia UV, hệ số hấp thụ năng lượng mặt trời SHGC thấp). Hướng đến quá trình sản xuất với các chỉ tiêu tiêu thụ năng lượng và phát thải thấp.
Sản xuất gạch đất sét nung: Dây chuyền sản xuất có năng suất cao, có khả năng tận dụng nguyên liệu, nhiên liệu chất lượng thấp như đất đồi, phế thải từ các ngành khác; sử dụng lò nung tuynel di động hoặc tuynel trần phẳng thông thường.
Sản xuất vật liệu xây không nung: Dây chuyền sản xuất tấm lớn (tấm tường bê tông rỗng, tấm tường bê tông khí chưng áp và các loại tấm nhẹ khác), sản xuất với năng suất cao, chất lượng ổn định phù hợp với công nghệ thi công nhanh tại công trình; công nghệ cho phép tận dụng tối đa tro, xỉ nhiệt điện và các chất thải rắn thông thường khác trong thành phần sản phẩm.
Sản xuất cát nhân tạo: Các dây chuyền sử dụng thiết bị nghiền sàng công suất lớn, hiệu quả, có khả năng thay đổi nguyên liệu với mức độ biến đổi về độ cứng rộng, có hệ thống tuần hoàn nước, chi phí sử dụng năng lượng thấp, phát thải bụi thấp.
Thi công bê tông và sản xuất cấu kiện bê tông: Đối với bê tông thi công tại chỗ, việc lựa chọn công nghệ bê tông phù hợp với công trình cụ thể: Đối với các kết cấu hình ống theo phương đứng (silo, ống khói, tháp cầu, vách thang máy), sử công nghệ cốp pha trượt. Đối với xây dựng đập trọng lực, sử dụng công nghệ bê tông đầm lăn. Với các kết cấu sàn vượt nhịp lớn sử dụng công nghệ sàn bê tông rỗng 3D. Đối với công tác sửa chữa, gia cường kết cấu, sử dụng các công nghệ bê tông đặc biệt như bê tông tự chảy (SCC), bê tông cốt sợi phân tán, bê tông tính năng cao (HPC) và siêu cao (UHPC). Công tác sản xuất bê tông có xu hướng chuyển dịch sản xuất từ công trường về nhà máy – nơi có điều kiện lao động tốt hơn để nâng cao năng suất, chất lượng cho cấu kiện đồng thời rút ngắn thời gian thi công tại hiện trường.
Ông Lê Văn Tới - Phó Chủ tịch Hội Vật liệu xây dựng Việt Nam: Hướng tới sản xuất sạch và sản phẩm thân thiện
|
Ông Lê Văn Tới - Phó Chủ tịch Hội Vật liệu xây dựng Việt Nam |
Giai đoạn từ 2010 đến nay, về lĩnh vực vật liệu xây dựng, Nhà nước có định hướng phát triển theo hướng sử dụng công nghệ tiên tiến, hướng đến sản xuất sạch và vật liệu xây dựng thân thiện. Tuy đã có nhiều thành tựu trong lĩnh vực sản xuất này nhưng vẫn còn nhiều bất cập.
Các văn bản pháp luật hiện hành quy định vật liệu xây dựng thân thiện là đối tượng được chú ý cả tới quá trình sản xuất ra nó, có các thuộc tính mà vật liệu xây dựng truyền thống không có. Đó là, mang lại hiệu quả cao hơn cho ngôi nhà, bảo vệ sức khỏe và nâng cao chất lượng sống cho người sử dụng. Trong quá trình sản xuất giảm thiểu sử dụng năng lượng, sử dụng tài nguyên khoáng sản. Trong quá trình sản xuất giảm thiểu chất thải, giảm thiểu ô nhiễm và những tác động hủy hoại môi trường.Trong quá trình sản xuất tham gia tích cực vào việc xử lý chất thải của ngành sản xuất khác. Tuy nhiên để thực hiện được những quy định trên là một quá trình khó khăn và không kém phần cam go.
Một số thống kê cho thấy, kết quả trong đầu tư sản xuất vật liệu xây dựng thân thiện như: Dây chuyền sản xuất kính phủ Low-e của Viglacera đã hoàn thành và đưa vào sử dụng từ tháng 7 năm 2016 với công suất 2.300.000m2/năm. Chưa có dự án sản xuất vật liệu xây dựng sử dụng rác thải sinh hoạt làm nhiên liệu.
Về chương trình phát triển vật liệu xây không nung (VLXKN) đến năm 2020, mục tiêu đề ra là “Phát triển sản xuất và sử dụng vật liệu xây không nung thay thế gạch đất sét nung đạt tỷ lệ: 20-25% vào năm 2015, 30 - 40% vào năm 2020”. Nhưng, thực tế tới năm 2015 cả nước đã đầu tư trên 2 ngàn dây chuyền sản xuất gạch block bê tông (gạch xi măng cốt liệu), trong đó gần 150 dây chuyền khoảng trên 10 triệu viên/năm và 13 dây chuyền gạch bê tông khí chưng áp. Chỉ tích 3 loại VLXKN cơ bản là block bê tông, AAC và bê tông bọt, cả nước đa có tổng công suất là 6,5 tỷ viên QTC; công suất đó có thể nói đã vượt chỉ tiêu của năm 2020…
Từ đầu năm 2020 cả nước bị ảnh hưởng lớn của đại dịch Covid-19, các ngành sản xuất bị đình trệ, trong đó có ngành xây dựng và lĩnh vực vật liệu xây dựng. Các cơ sở sản xuất không được khai thác hết công suất do việc tiêu thụ sản phẩm rất khó khăn, vì vậy việc đầu tư mới các cơ sở sản xuất VLXKN cũng chững lại.
Hiện nay, ngày càng có nhiều khối nhà cao tầng sử dụng kính tiết kiệm năng lượng. Tuy nhiên vẫn chưa phải tất cả các chủ đầu tư, hay tại các dự án nhà cao tầng đều sử dụng, trong khi Quy chuẩn Việt Nam số 09/2013/BXD về quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về các công trình xây dựng sử dụng năng lượng hiệu quả, đã quy định việc hạn chế bức xạ mặt trời.
Về tiêu thụ VLXKN, theo số liệu của Vụ Vật liệu xây dựng, nếu tính bình quân cả nước và các loại VLXKN nói chung thì con số sử dụng năm 2015 là 4,98 tỷ viên QTC trên tổng số 23 tỷ viên VLX được sử dụng, đạt 21%. Như vậy chỉ tiêu thứ nhất của Chương trình 567 là tỷ lệ sử dụng bình quân trong cả nước đã đạt (Chương trình đề ra là trên 20%);
Tỷ lệ gạch nhẹ đang ở tỷ lệ thấp, chỉ mới khoảng gần 10% trên tổng số VLXKN, mà mục tiêu đề ra là trên 20%. Đây là chỉ tiêu quan trọng thứ hai trong Chương trình phát triển VLXKN đến năm 2020 của Thủ tướng Chính phủ. Nhưng là tiêu chí quan trọng, nhằm khuyến khích tạo ra công trình xanh.
Ngoài tính năng vượt trội khác như nhẹ, dễ xây, tạo tính công nghiệp hóa cao trong sản xuất và sử dụng…VLXKN loại nhẹ có độ cách âm lớn, độ truyền nhiệt rất thấp. Hai tiêu chí này khiến cho người sống trong tòa nhà được khỏe khoắn và thoải mái hơn. Đặc biệt độ truyền nhiệt thấp của gạch bê tông khí chưng áp giúp tòa nhà có thể tiết kiệm tới 40% năng lượng để sưởi nóng vào mùa đông và làm mát vào mùa hè. Những người đã sống trong căn hộ được xây bởi gạch bê tông khí chưng áp thì cảm nhận rất rõ điều này.
Giải pháp nào để việc sản xuất và sử dụng VLXD thân thiện được như định hướng? Đó là, Nhà nước cần phải có những biện pháp hành chính cần thiết để thúc đẩy sử dụng vật liệu xây dựng thân thiện. Những biện pháp này cần được quy định trong văn bản pháp luật, ít nhất là trong Nghị định. Bên cạnh đó, phải thay đổi trong công tác chỉ đạo thực hiện: Cần nhất quán, quyết liệt hơn; gắn trách nhiệm cho các địa phương, có kiểm tra, có khen thưởng các địa phương làm tốt, có phê bình đối với những địa phương thực hiện chưa tốt. Công tác tuyên truyền cần được coi trọng và mạnh mẽ hơn. Các giải pháp mang tính kỹ thuật, chuyên sâu về khung kỹ thuật. Các cơ quan chức năng cần ban hành đầy đủ tiêu chuẩn, quy chuẩn, định mức kinh tế kỹ thuật liên quan đến sản phẩm, đến việc sử dụng vật liệu xây dựng thân thiên. Đặc biệt đối với công trình “xanh” cần đưa ra các tiêu chí và thông số đặc thù cụ thể.
Về đào tạo: Phải có chương trình giảng dạy tại các trường chuyên ngành xây dựng về thiết kế, thi công sử dụng vật liệu xây dựng thân thiện; Cần có sự cập nhật, cải tiến trong biên soạn giáo trình. Khuyến khích, hỗ trợ các trường, các trung tâm dạy nghề mở các khóa đào tạo ngắn hạn kỹ thuật cho công nhân sử dụng VLXKN.
Về công nghệ thi công, cần bổ sung chính sách để khuyến khích sử dụng công nghệ thi công tiên tiến, nhằm tăng năng suất lao động, tăng thu nhập cho người lao động trong sử dụng vật liệu xây dựng thân thiện.
PGS.TS Lương Đức Long - Phó Chủ tịch, Tổng Thư ký Hiệp hội Xi măng Việt Nam: Chuyển đổi số trong lĩnh vực sản xuất công nghiệp
Sản xuất vật liệu xây dựng là một ngành công nghiệp, đối với đa số sản phẩm vật liệu xây dựng, quá trình sản xuất bao gồm các công đoạn từ: Khai thác nguyên liệu, gia công và đồng nhất nguyên liệu, chế tạo sản phẩm…Ngoài sản xuất, doanh nghiệp cần mua vật tư, phụ tùng phục vụ sản xuất, bảo trì, sửa chữa thiết bị, thực hiện việc vận chuyển (logistic), bán hàng….Trong bối cảnh cuộc cách mạng công nghiệp 4.0, ngành công nghiệp sản xuất vật liệu xây dựng cần tập trung chuyển đổi số và áp dụng thành tựu công nghệ trong các doanh nghiệp vật liệu xây dựng để tối ưu hoá sản xuất và các công đoạn liên quan nhằm phục vụ tốt nhất đến khách hàng.
|
PGS.TS Lương Đức Long - Phó Chủ tịch, Tổng Thư ký Hiệp hội Xi măng Việt Nam |
Ngành công nghiệp vật liệu xây dựng đang giữ vai trò quan trọng trong nền kinh tế, đóng góp khoảng 6,5 – 7% vào GDP của Việt Nam. Do quá trình phát triển kết cấu hạ tầng của nước ta vẫn tiếp tục trong vài chục năm nữa nên xây dựng và vật liệu xây dựng vẫn có vai trò rất quan trọng trong giai đoạn tới.
Để nâng cao khả năng cạnh tranh của các sản phẩm vật liệu xây dựng, các doanh nghiệp sản xuất vật liệu xây dựng cần áp dụng các thành cựu của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4. Một trong những việc không thể thiếu khi áp dụng I4 là chuyển đổi số. Nếu không chuyển đổi số, không thể thực hiện được bất kỳ nội dung nào trong I4.
Chuyển đổi số là việc chuyển toàn bộ các thông tin, dữ liệu liên quan đến doanh nghiệp, từ khai thác mỏ, cung ứng vật tư, phụ tùng, sản xuất, logistic, bán hàng, quản lý, điều hành, công tác lập kế hoạch, tổ chức, nhân sự…thành các tín hiệu số để máy tính có thể đọc được, lưu trữ, quản lý, xử lý, chuyển từ nơi này đến nơi khác thông qua kết nối internet (IoT). Chuyển đổi số là nền tảng, tạo ra “nguyên liệu” cho tất cả các công việc tiếp theo của I4. Nếu không có chuyển đổi số, sẽ không có cách mạng công nghiệp 4.0.
Nội dung chuyển đổi số của doanh nghiệp sản xuất vật liệu xây dựng bao gồm việc chuyển đổi số của 5 khâu. Trong mỗi khâu này lại bao gồm rất nhiều nội dung khác nhau. Các dữ liệu đã được số hóa sẽ được sử dụng cho nhiều mục đích khác nhau. Có thể tóm tắt một số nội dung cơ bản như sau:
Mỏ nguyên liệu, cần số hóa các dữ liệu: Trữ lượng mỏ, chất lượng mỏ theo lưới khoan địa chất, tình hình khai thác (biến đổi trữ lượng, chất lượng theo thời gian), điều kiện khai thác…Các dữ liệu này được sử dụng để mô hình hóa mỏ nguyên liệu phục vụ công tác khai thác, sử dụng tối ưu nguyên liệu, dự báo nguyên liệu và lập kế hoạch nguyên liệu cho doanh nghiệp.
Dây chuyền công nghệ sản xuất, cần số hóa các dữ liệu: Danh mục thiết bị kèm theo quy cách, sơ đồ công nghệ, các thông số vận hành, năng suất, chất lượng sản phẩm và bán sản phẩm của từng công đoạn sản xuất, tình trạng chất lượng thiết bị, dây chuyền sản xuất, thời gian dừng kỹ thuật, sự cố…Các dữ liệu này được sử dụng để tối ưu hóa các thông số vận hành, dự báo bảo trì, tiết kiệm năng lượng, chi phí nhân công, lập kế hoạch cung cấp phụ tùng thay thế.