Ảnh minh họa
Chỉ số nhóm nhà ở và VLXD giảm mang tính thời vụ
Theo báo cáo của Cục Thống kê - Bộ Tài chính công bố ngày 06/12 cho thấy chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tháng 11/2025 đã tăng 0,45% so với tháng Mười, chủ yếu chịu áp lực từ sự leo thang của giá nhóm hàng ăn uống do ảnh hưởng nặng nề của thiên tai và sự điều chỉnh tăng giá của nhóm nhiên liệu.
Tính chung 11 tháng, CPI bình quân tăng 3,29% so với cùng kỳ năm trước, trong khi lạm phát cơ bản tăng 3,21%, điều này cho thấy nỗ lực kiểm soát lạm phát vẫn đang đi đúng hướng, dù gặp nhiều thách thức.
So với tháng 12/2024, CPI tháng 11 đã tăng 3,28% và tăng 3,58% so với cùng kỳ năm trước. Cùng với diễn biến chung, thị trường vàng tiếp tục xác lập mức tăng trưởng kỷ lục, trở thành kênh trú ẩn an toàn hấp dẫn trong bối cảnh địa chính trị toàn cầu bất ổn.
Trong mức tăng 0,45% của chỉ số giá tiêu dùng CPI tháng 11 so tháng trước, có 9 nhóm hàng hóa và dịch vụ có chỉ số giá tăng; 2 nhóm hàng hóa và dịch vụ có chỉ số giá giảm.
Đáng chú ý, trong tháng 11, nhóm nhà ở, điện nước, chất đốt và vật liệu xây dựng giảm 0,10% so với tháng trước, mức giảm nổi bật trong khi phần lớn các nhóm hàng khác tăng giá.
Nguyên nhân chính khiến nhóm này giảm giá là do giá điện sinh hoạt giảm 1,53%; giá nước sinh hoạt giảm 0,34%; giá gas giảm 1,15% theo điều chỉnh giá thế giới; dịch vụ điện giảm 0,09%.
Các yếu tố này đều mang tính thời vụ như: thời tiết lạnh khiến nhu cầu điện, nước giảm; giá năng lượng thế giới điều chỉnh hạ; doanh nghiệp gas trong nước giảm giá từ ngày 01/11.
Tuy nhiên, ngay trong nhóm này lại xuất hiện những chỉ số tăng như: vật liệu bảo dưỡng nhà ở tăng 0,62%; dịch vụ sửa chữa nhà ở tăng 0,48%; giá thuê nhà tăng 0,31%.
Điều này cho thấy sự phân hóa mạnh khi nhóm năng lượng giảm, nhưng nhóm vật liệu hoàn thiện và bảo trì lại tăng.
Chỉ số giá VLXD 11 tháng tăng theo nhu cầu thực tế
Các con số của báo cáo cho thấy, chỉ số nhóm nhà ở, điện nước, chất đốt và VLXD tháng 11 giảm nhưng 11 tháng của năm 2025 lại ghi nhận nhiều xu hướng tăng liên quan đến VLXD.
Đầu tiên, phải nhìn vào các ngành sản xuất VLXD chủ lực tăng trưởng mạnh. Theo dữ liệu 11 tháng cho thấy nhiều sản phẩm VLXD tăng cao so với cùng kỳ: Thép cán: +18,5%; Xi măng: +14,1%; Sơn hóa học: +10,9%. Điều này phản ánh nhu cầu xây dựng công nghiệp, hạ tầng và cải tạo nhà ở duy trì ổn định. Doanh nghiệp VLXD giữ nhịp sản xuất cao, không cắt giảm công suất. Tồn kho thấp, giá bán duy trì ở mức ổn định hoặc tăng nhẹ ở nhiều khu vực.
Thứ hai, tính đến áp lực chi phí đưa giá vật liệu hoàn thiện tăng cao. Ngay cả khi điện, nước giảm vào tháng 11, chi phí đầu vào của VLXD trong 11 tháng vẫn cao như: chi phí nhân công tăng; chi phí vận chuyển neo ở mức cao; một số nguyên liệu nhập khẩu tăng giá (thép phế, phụ gia…)
Do đó, nhiều vật liệu hoàn thiện,sửa chữa vẫn ổn định hoặc tăng theo quý, bất chấp năng lượng giảm vào tháng 11.
Bên cạnh đó, diễn biến giá thuê nhà và nhu cầu sửa chữa kéo giá vật liệu tăng như: giá thuê nhà tăng 0,31% trong tháng 11, và tăng đều theo quý do người dân đẩy mạnh sửa chữa, hoàn thiện nhà ở để cho thuê hoặc bán lại.
Cũng trong 11 tháng, mức tiêu thụ VLXD dân dụng ghi nhận tăng tại nhiều khu vực đô thị lớn như Hà Nội, Đà Nẵng, Cần Thơ.
Vậy vì sao chỉ số tháng 11 giảm nhưng xu hướng cả năm lại tăng. Có thể thấy, các nhóm giảm mạnh trong tháng 11 đều liên quan đến năng lượng và vận hành hệ thống sinh hoạt, không phản ánh toàn bộ thị trường VLXD.
Trong khi đó, 11 tháng tăng do nhu cầu thực tế cao và chi phí đầu vào lớn do ngành xây dựng 2025 chịu tác động từ việc bùng nổ sửa chữa sau thiên tai tại miền Trung; hàng loạt dự án hạ tầng đang tăng tốc giải ngân;...
Việc nhóm nhà ở và VLXD giảm 0,10% trong tháng 11 là tín hiệu tích cực đối với CPI, nhưng không thể coi đó là dấu hiệu giảm giá dài hạn. Trong 11 tháng, giá vật liệu hoàn thiện và bảo dưỡng tăng mạnh, phản ánh nhu cầu sửa chữa đô thị và chi phí nhân công tăng.
Đặc biệt, xi măng và thép tăng sản lượng trên 14-18% cho thấy doanh nghiệp đang duy trì công suất tốt. Tồn kho thấp, chi phí đầu vào không giảm nhiều, do đó năm 2026 giá VLXD khó giảm mạnh; thị trường nhiều khả năng ổn định hoặc tăng nhẹ theo quý.
Theo các nhà phân tích thị trường dự báo, thị trường VLXD năm 2026 sẽ có 5 xu hướng chính: Giá VLXD cơ bản ổn định, ít biến động mạnh, Xi măng giữ mặt bằng giá hiện tại. Trong khi thép phụ thuộc Trung Quốc nhưng kỳ vọng ổn định khi nước này giảm sản lượng để bảo vệ môi trường; Vật liệu hoàn thiện dự kiến tăng thêm 2-4% trong nửa đầu 2026 do nhu cầu sửa chữa sau Tết và xu hướng nâng cấp nhà cũ.
Đáng chú ý, nhóm VLXD xanh, vật liệu tiết kiệm năng lượng phát triển mạnh như: Gạch không nung, kính low-E, sơn sinh thái, gạch cách nhiệt dự kiến tăng trưởng 12-20%.
Các doanh nghiệp VLXD tiếp tục tái cơ cấu, trong đó xu hướng sáp nhập trong ngành xi măng và doanh nghiệp thép đẩy mạnh xuất khẩu sang Ấn Độ, Indonesia, Trung Đông...
Nhìn chung, chỉ số tháng 11 giảm nhưng xu hướng 11 tháng cho thấy thị trường VLXD vẫn tăng trưởng. Mặc dù nhóm nhà ở và VLXD giảm 0,10% trong tháng 11/2025 do yếu tố năng lượng, nhưng sản lượng VLXD 11 tháng vẫn tăng mạnh.
Như vậy, tháng 11 chỉ là pha điều chỉnh mang tính thời vụ, không phản ánh xu hướng giảm dài hạn. Thị trường VLXD năm 2026 được dự báo tiếp tục ôn định ở nhóm vật liệu cơ bản; Tăng nhẹ ở nhóm vật liệu hoàn thiện; Tăng mạnh ở phân khúc VLXD xanh, VLXD công nghệ cao. Các doanh nghiệp ngành Xây dựng cần chủ động chuẩn bị chiến lược cho chu kỳ mới.